“Ðức Mẹ cô đơn” là lối gọi thân thương của dân trong vùng Ba Thôn khi kể về một bức tượng Ðức Mẹ đã có từ những năm 60 của thế kỷ trước. Xưa, tượng Mẹ đứng một mình ôm con được ai đó đặt trên khu đất hoang sơ đầy mồ mả, xung quanh thưa thớt nhà cửa, nên nhiều tín hữu truyền nhau đặt thành tên. Trải qua nhiều đổi thay, ngày nay tượng Mẹ đã được đặt để trên đài cao và xây dựng như một ngôi đền nhỏ.
Mỗi ngày đều đặn có đến mấy trăm lượt khách gần xa đến viếng, đây như là chốn nghỉ ngơi, có vòng tay yêu thương của Mẹ đón đợi, vỗ về, nhiều người nói vui rằng Mẹ đã hết cô đơn! Cái tên chính thức hiện nay là Đài Đức Mẹ giáo xứ Ba Thôn (hạt Hóc Môn). Đường đi đến đài khá thuận lợi, vì tọa lạc ngay mặt tiền tuyến đường Tô Ngọc Vân đông đúc thuộc phường Thạnh Xuân, quận 12, TPHCM.
Không gian bên trong khu vực đài rộng chừng vài trăm mét vuông, bao quanh bởi tường cao xung quanh. Có 4 cánh cổng sắt to, chắc chắn, được mở gần như cố định từ 6 giờ sáng đến 9 giờ tối để đón người thập phương. Phần mái được lợp bằng tôn, như dạng nhà tiền chế. Tượng Đức Mẹ được đặt trên bục xi măng, có thêm tam cấp bên dưới, cao chừng 2 mét, phía sau là Thánh giá lớn. Bức tượng rất ấn tượng bởi những đường nét hài hòa, dù quen với hình ảnh Chúa Hài Đồng được Mẹ đặt trên vai, nép người sát vào bên Mẹ; nhưng lại lạ khi dáng tượng khắc họa rất tỉ mỉ chi tiết bàn tay Mẹ nâng tay con lên và hôn một cách âu yếm, đầy tình thương và sự bao bọc. Toàn bộ khu vực sân đài đều được lót gạch men thật sạch sẽ. Trước tượng Mẹ là cặp lư hương lớn, cao ngang ngực, lúc nào cũng nghi ngút khói hương. Bên dưới là 4 dãy ghế đá kê cố định để khách đến viếng có chỗ ngồi cầu nguyện, đọc kinh. Dọc các hàng ghế là những chiếc bình luôn đầy ắp hoa tươi, được dâng bởi những người đến viếng.
Các bờ tường phủ kín các bảng tạ ơn của những người từng đến đây xin khấn và được Mẹ chuyển cầu. Áng chừng có gần 700 tấm bảng, làm bằng mica, ghi những dòng chữ Xin Tạ Ơn Đức Mẹ, sắp đặt ngăn nắp, thẳng hàng. Đây như là minh chứng về một điểm tựa thiêng liêng của đoàn con cái khắp nơi đã và đang tìm về bên Mẹ, suốt gần 60 năm qua.

Năm giờ rưỡi chiều, có hơn chục người ra vô khu đài, thắp nhang, đọc kinh, xin khấn. Ông Trần Văn Hùng, 60 tuổi, hiện là người coi sóc tượng đài đang lau dọn, khi nghe hỏi thăm về gốc tích đài Đức Mẹ, đã nhiệt tình dẫn khách vòng ra sau, dừng lại chỗ hàng rào, nơi có treo bảng thông tin về lịch sử khu tượng đài.
Chỉ những tấm ảnh kỷ niệm ngả vàng, chỗ rõ chỗ nhòe in trên bảng, ông như ôn lại một lần nữa quá trình di dời, tái thiết khu tượng đài cùng anh em trong giáo xứ ngày xưa. Mới hay vì sao người ta lại gọi nơi đây là đài “Đức Mẹ cô đơn”. Vùng đất này vốn dĩ hoang vu vắng vẻ, um tùm lau sậy, xa xa mới có lác đác vài ba mái chòi. Không nhớ chính xác là bao lâu, nhưng ông Hùng nói đã phải hơn nửa thế kỷ trước, một người giáo dân gần đó đã đặt tượng Đức Mẹ vào giữa khu nghĩa trang của trại nuôi trẻ mồ côi và người già đau yếu, tàn tật. Mẹ bồng Chúa, đứng chơi vơi giữa những nấm mồ quanh năm không người thân lui tới. Thời gian dần trôi, bao đổi thay sương gió, khiến nơi này vốn đã vắng vẻ, lại ngày càng hiu hắt hơn. “Hồi xưa tượng Mẹ trơ trọi lắm, đất cát xung quanh cứ bồi dần lên đến gần nửa người, nhìn cứ y như Đức Mẹ đang quỳ vậy” - ông Hùng cũng kể thêm về quãng thời gian cũ.
Theo linh mục Phêrô Phạm Văn Bộ, thì đến đầu những năm 2000, đài Đức Mẹ được giáo dân nơi đây giao cho giáo xứ Ba Thôn quản lý và chăm sóc. Năm 2011, dưới sự hướng dẫn của linh mục Vinh Sơn Trần Bích, giáo xứ tiến hành sửa sang lại khu vực tượng Đức Mẹ. Việc sửa sang lần đầu khá đơn giản, chỉ là đổ đá, lát lại nền cho bằng phẳng. Tượng Mẹ được đặt trên bục cao, xung quanh bố trí vài ba hàng ghế đá, có thêm hoa nến. Lúc này, người đến viếng ngày một đông, nên cũng ấm cúng dần, mặc dù quanh chân Mẹ vẫn còn khoảng chục ngôi mộ chưa được bốc. Mãi đến năm 2014, giáo xứ thực hiện cuộc tái thiết lần hai, đó là di dời tượng Mẹ - đang ở sát mặt đường - vào sâu bên trong, cách đường khoảng chục mét. Các ngôi mộ cũng được bốc và chuyển đi nơi khác. Lần xây mới này cũng là hiện trạng khu đài Đức Mẹ ngày nay.
Đài Đức Mẹ hiện tại đã không còn cô đơn như tên gọi, một ngày bình thường cũng đón tiếp hơn 300 lượt người ghé qua. Đó có thể là một chị bán hàng rau đi ngang dừng đọc vài kinh; là anh xe ôm ghé lại dâng Mẹ công việc của một ngày mới; hay bà mẹ chở con đi học quẹo vô nhắc con phó thác mọi sự cho Mẹ. Những ngày lễ kính Đức Mẹ, con số này còn tăng gấp bội. Nhiều người ở các giáo xứ lân cận như trên Hóc Môn hay phía Gò Vấp vẫn thường xuyên lui tới viếng, có khi mỗi tuần, có khi hai ba ngày một lần. “Khá lâu rồi, tôi vẫn giữ truyền thống đến đây viếng Mẹ, đi một mình hoặc cùng gia đình. Mỗi lần cầu nguyện với Mẹ, tôi luôn cảm thấy bình an và được an ủi những khi gặp biến cố trong cuộc sống” - chị Nguyễn Thị Hồng Nhung, giáo dân giáo xứ Thái Bình (hạt Xóm Mới) chia sẻ.
Lòng đạo đức bình dân xưa nay dễ được khơi nguồn từ những miền heo hút, khiêm nhu như chốn này. Nhiều nơi, dẫu không được định danh trên sách vở, nhưng biết bao tên gọi thân thương vẫn luôn được lưu nhớ trong lòng mỗi người con có niềm sùng kính Mẹ, như là đài “Đức Mẹ cô đơn”.
Mai An Thu
Bình luận