Công đồng Vatican II đem lại luồng gió mới, sức sống mới cho Giáo hội hoàn vũ. Đối với người giáo dân như tôi, ấn tượng đọng lại về Công đồng Vatican II là tinh thần hội nhập văn hóa. Đây là vấn đề lớn đã từng tạo ra khoảng cách giữa đạo Công giáo với văn hóa tín ngưỡng của các dân tộc, nhất là dân tộc Á đông. Từ sự nhìn nhận thực tiễn cuộc sống sinh động, tinh thần Công đồng Vatican II đã “mở ra”, lan tỏa hài hòa trong đời sống với những đặc điểm phong tục, tập quán và tín ngưỡng truyền thống của từng dân tộc. Một trong những khía cạnh hội nhập rõ nét là Công đồng đã chủ trương cải tổ về lễ nghi, cho phép được dùng tiếng mẹ đẻ thay cho tiếng Latinh trong phụng tự.
![]() |
Với trí nhớ còn sót lại của người già đã vào tuổi “cổ lai hy”, xin ghi lại một vài kỷ niệm của thời thơ ấu. Ngày đó, tôi chỉ là một đứa bé khoảng mươi tuổi, trong một gia đình có truyền thống sống theo tinh thần của thánh Phanxicô khó nghèo. Bởi tôi có một chú ruột là cha dòng này, nên được ngài cho một chiếc tu phục màu nâu vừa tầm với mình. Mang chiếc áo dòng bé con với lòng đạo hồn nhiên, thỉnh thoảng tôi vui thích bắt chước các ngài “làm lễ tại gia” chỉ có mình mình, có khi thêm thằng em họ cùng “dự lễ”. Cũng vì những thiện duyên này, tôi được cha chú dẫn dắt giao cho một thầy dòng hướng dẫn làm “chú giúp lễ” (nay gọi là lễ sinh) tại nguyện đường thuộc tu viện dòng Phanxicô trên đường Phạm Đăng Hưng cũ (nay là Mai Thị Lựu, Q1). Ngôi nhà thờ nhỏ cho khoảng 200 giáo dân, đơn sơ tường vôi cửa gỗ giản dị có một cây si cổ thụ trên lối vào, tỏa bóng với những chùm rễ bao phủ tượng đài Đức Mẹ. Tôi không biết các “chú giúp lễ” ở những nơi giáo xứ khác thế nào, nhưng nhờ những lần được chỉ dạy “giúp lễ” tại nguyện đường của tu viện, tôi vẫn còn nhớ vài câu tiếng Latinh nghe quen thuộc trong thánh lễ như khi cha chủ tế mở lời chào chúc: “Đô mi nô vô bít scum (Chúa ở cùng anh chị em)”, thì thưa: “Ê cum spia ri tu tu ô (Và ở cùng cha)”, hay lời kinh Cáo Mình đọc cùng “thầy cả” mà ngày đó tôi thường đọc: “Công phi tê o đề om ni pô ten ti, bê a tê ma ri ê xem pe việc di ni, bê a tê mi ca e li a căng giê lô…(Tôi cáo mình cùng Đức Chúa Trời phép tắc vô cùng, và Rất thánh Đức Bà Maria trọn đời đồng trinh, cùng Đức thánh Micae tổng lãnh thiên thần)… Mê a cun pa, mê a cun pa, mê mắc xi ma cun pa (Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng)…(vừa quỳ vừa quay qua quay lại ba lần)”. Những lời kinh bằng tiếng Latinh được thuộc lòng trơn tru mà trí óc non nớt không hiểu ý nghĩa gì… Rồi những lời kinh cũng là lời ca “San vê rê gi na, ma te mi dê ri co đi ê, vi ta đun cê đô ê spê nốt stra, sanvê… (Lạy Nữ vương Mẹ nhân lành làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy, thân lạy Mẹ…), mà mỗi khi được nghe lại lời ca “Salve Regina” vẫn còn cảm xúc man mác.
Công đồng Vatican II đến khiến cho những lời đối đáp, lời kinh tiếng Latinh được dân tộc hóa theo ngôn ngữ người dân địa phương, mang lại sự gần gũi, hiểu biết với nhiều ơn ích “Hiệp hành”cùng người giáo dân. Từ đó, thánh lễ với tiếng dân tộc đã không còn như “của riêng”, mà là “của chung” của mọi thành phần Dân Chúa. Bởi khi chưa có Công đồng Vatican II, người giáo dân hầu như chỉ đến “xem lễ” và nghe cha giảng chứ không được “dự lễ” theo nghĩa được thông phần sốt mến vào “bàn tiệc thánh”, vì thiếu sự cộng hưởng tích cực bằng ngôn từ tiếng mẹ đẻ.
Như Lời Chúa trong sách Công vụ Tông đồ: “Những người đang nói đó không phải là người Galilê cả ư? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta? Chúng ta đây, có ngưới là dân Pácthia, Mêđi, Êlam, Mêxôpôtamia, Giuđê, Cáppađôkia, Ponto và Axia, có người là dân Phyghia, Pamphylia, Ai Cập, và những vùng Libya giáp giới Kyrênê; nào là người từ Rôma đến đây; nào là người Do Thái cũng như người đạo theo; nào là người đảo Cơrêta hay người Ả Rập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa !”, Công đồng Vatican II thực là một “Lễ Hiện Xuống mới” để mọi dân nước đều được hưởng nhờ ân sủng mà Thiên Chúa ban tặng.
MAI CHI
Bình luận