Công giáo với văn hóa Việt Nam từ năm 1975 đến nay
Những năm sau ngày thống nhất đất nước, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam có nhiều diễn biến khó khăn. Đất nước trải qua thời kỳ chiến tranh lâu dài với di hại hết sức nặng nề. Giao thông đi lại giữa hai miền còn nhiều trắc trở. Với Giáo hội Công giáo sau 1975, tuy số lượng người di tản ít, tuy đường hướng của Giáo hội đối với dân tộc được xác lập bởi các vị Giám mục và Hội nghị các Giám mục Việt Nam năm 1976, song do nhiều nguyên nhân mà tinh thần tiến bộ của Giáo hội chưa thật sự tác động làm chuyển biến tới Giáo hội cơ sở ở miền Bắc… Do không có điều kiện tiếp cận với tinh thần Công đồng Vatican II nên nhìn chung quan điểm chính trị - xã hội của giáo quyền ít có sự thay đổi.
![]() |
Nhà thờ Đa Minh - Ba Chuông có kiến trúc diễn tả hội nhập văn hóa
|
Do vậy, nghiên cứu về giai đoạn năm 1975 đến nay của Công giáo với văn hóa Việt Nam chỉ thực sự bắt đầu từ năm 1980. Năm này, sau một thời gian dài chuẩn bị, từ ngày 24.4 đến ngày 1.5.1980, Hội nghị các Giám mục toàn quốc họp tại Hà Nội - Thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thành lập một tổ chức đại diện cho Giáo hội Công giáo Việt Nam, đó là Hội đồng Giám mục Việt Nam. Kết thúc hội nghị, ngày 1.5.1980, Hội đồng Giám mục Việt Nam ra Thư chung “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”, xác quyết con đường gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Đường hướng này được thể hiện cụ thể trong hai nội dung: 1) Tích cực góp phần cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. 2) Xây dựng trong Hội Thánh một nếp sống và một lối diễn tả đức tin phù hợp với truyền thống dân tộc.
Nội dung thứ nhất đã được chỉ rõ ở phần Công giáo với chính trị ở Việt Nam. Với nội dung thứ hai, Thư chung khẳng định Giáo hội Công giáo Việt Nam thực hiện điều mà Công đồng Vatican II tuyên bố: “Những gì tốt đẹp trong tâm hồn và tư tưởng của loài người hoặc trong nghi lễ riêng của các dân tộc, hoạt động của Hội Thánh không nhằm tiêu diệt, nhưng làm cho lành mạnh, nâng cao và kiện toàn, hầu làm vinh danh Thiên Chúa và mưu cầu hạnh phúc cho con người” (GH 17,1). Muốn thế, một đàng chúng ta phải đào sâu Thánh Kinh và thần học để nắm vững những điều cốt yếu của đức tin, đàng khác phải đào sâu nếp sống của từng dân tộc trong nước để rồi khám phá ra những giá trị riêng của mỗi dân tộc. Rồi từ đó, chúng ta vận dụng những cái hay trong một kho tàng văn hóa và xây dựng một nếp sống diễn tả đức tin phù hợp hơn với truyền thống của mỗi dân tộc đang cùng sống trên quê hương và trong cùng Hội Thánh này”.
Tuy không chỉ ra một cách cụ thể, nhưng toát yếu của nội dung thứ hai chính là Giáo hội Công giáo Việt Nam chủ trương hội nhập lối diễn tả đức tin Công giáo với văn hóa Việt Nam. Vấn đề hội nhập được một số Thư chung, Thư mục vụ của Hội đồng Giám mục Việt Nam sau này tiếp tục triển khai. Thư chung năm 1992, mục 9 đề cập đến việc hội nhập văn hóa Kitô giáo với văn hóa Việt Nam với tiêu đề: Xây dựng một nếp sống và một lối diễn tả đức tin có bản sắc dân tộc hơn. Nội dung như sau:
“Ngay từ đầu, cha ông chúng ta đã biết vận dụng những cái hay trong kho tàng văn hóa dân tộc để diễn tả đức tin, diễn tả tương quan của mình với Thiên Chúa: Từ âm nhạc, nghệ thuật, kiến trúc, lễ nghi… đến các tổ chức gia đình, làng xóm, xứ đạo. Ngày nay, sự giao lưu giữa các dân tộc đang làm cho các nền văn hóa ngày càng xích lại gần nhau và dễ dàng tiếp nhận nhau.
Đi tìm sắc thái văn hóa dân tộc không có nghĩa là đơn thuần lấy lại những cái cổ xưa, nhưng làm sao cho tinh thần dân tộc được diễn tả trong lời kinh, tiếng hát, trong cử hành phụng vụ, trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong suy tư và ngôn ngữ thần học. Công việc này cũng phải thực hiện trong các dân tộc ít người nữa, sao cho mỗi dân tộc đều giữ được bản sắc của mình trong Hội Thánh”.
So với nội dung thứ hai của Thư chung 1980, Thư chung 1992 cụ thể rõ hơn “bản sắc dân tộc tính” mà Công giáo ở Việt Nam cần thiết phải hội nhập để xây dựng nếp sống và diễn tả đức tin Kitô giáo. Một điểm chú ý khác, Thư chung 1992 còn yêu cầu hội nhập với văn hóa các dân tộc ít người. Bởi trong quá trình truyền giáo, Giáo hội Công giáo có một bộ phận dân tộc ít người ở Trường Sơn, Tây Nguyên và ở miền núi phía Bắc. Những dân tộc ít người đó đều có những bản sắc văn hóa riêng, tác động đến cộng đồng người gia nhập Công giáo, vì vậy hội nhập văn hóa với văn hóa các dân tộc này là không thể không làm.
Vậy là sau 12 năm kể từ Thư chung 1980, vấn đề hội nhập văn hóa được bàn trở lại. Nội dung này được dịp “bùng nổ” khi Hội nghị Thượng Hội đồng Giám mục châu Á được nhóm họp năm 1998. Thư chung (1998) cho biết: “Trong Hội nghị, các giám mục Việt Nam đã trình bày những kinh nghiệm đạt được trong lãnh vực giáo lý, những thực hành mục vụ theo chiều hướng hội nhập văn hóa và đáp ứng các nhu cầu của xã hội. Tựu chung, chúng tôi đã nêu lên mấy chủ đề:
1- Làm sao nói về Thiên Chúa Cha và Hội Thánh trong khung cảnh nền văn hóa của xã hội Việt Nam vốn lấy gia đình làm nền tảng.
2 - Làm sao nhận ra tác động của Chúa Thánh Thần nơi mọi người thành tâm thiện chí, đặc biệt nơi các tôn giáo bạn.
3 - Làm sao để việc tôn kính ông bà, tổ tiên giúp người ta nhận biết Thiên Chúa, và hiểu rõ hơn về đạo hiếu của người Công giáo Việt Nam”.
Nếu như Thư chung 1992 bàn đến việc hội nhập về âm nhạc, nghệ thuật, kiến trúc, lễ nghi nghiêng về yếu tố văn hóa truyền thống, thì Thư chung 1998 đi vào ba vấn đề đã và đang đặt ra mang tính nóng bỏng, cấp thiết. Đó là văn hóa gia đình nền tảng văn hóa xã hội. Vấn đề đạo Hiếu (tôn kính ông bà tổ tiên) và vấn đề nhìn nhận tôn giáo ngoài Kitô giáo được Thư chung gọi là tôn giáo bạn. Đó là sự chuyển biến về chất. Một sự chuyển biến chỉ có từ sau Công đồng Vatican II cũng như tác động từ Đại hội các Giám mục châu Á họp kỳ đại hội tại Manila (Philippines) tháng 11.1970.
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
Bình luận