Các giáo phận Tây Nguyên đến năm 1954
1.Quá trình hình thành giáo xứ, giáo họ trong vùng dân tộc thiểu số ở giáo phận Kon Tum đến năm 1954.
Truyền giáo, phát triển đạo Công giáo ở Việt Nam thành tựu không chỉ là việc phát triển được bao nhiêu tân tín hữu, mà quan trọng ở chỗ từ đó thiết lập được bao nhiêu xứ đạo, họ đạo. Khi phát triển được một số lượng tín hữu nhất định, các giáo sĩ lo ngay đến việc thiết lập xứ đạo, họ đạo để một mặt chăm lo đời sống đạo cho tín hữu, mặt khác để quản lý họ giữ đạo.
Từ giữa thế kỷ XIX, hoạt động truyền giáo, phát triển đạo Công giáo trong vùng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên được tiến hành, dần dần thu được kết quả để rồi lập nên một giáo phận mới, giáo phận Kon Tum. Nằm phía bắc Tây Nguyên, giáo phận Kon Tum gồm hai giáo hạt Kon Tum và Pleiku.
Quá trình hình thành giáo xứ, giáo họ trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở giáo phận Kon Tum thời gian đầu là rất đa dạng, nhưng có thể quy vào 3 hình thức sau đây:
Hình thức thứ nhất: Xứ, họ đạo ra đời gắn liền với việc lập làng mới, tách cư dân theo Công giáo ra khỏi làng truyền thống. Có thể kể đến một số làng mới như Rơhai, Kon Tum, Kon Trang... Từ làng mới thiết lập, các giáo sĩ tiếp tục lập các làng mới khác hoặc nông trại. Ðây là cơ sở để xác lập xứ đạo, họ đạo.
Hình thức thứ hai: Xứ, họ đạo được thành lập do cư dân hàm ơn giáo sĩ. Một việc làm đem lại hiệu quả cho hoạt động truyền giáo là các giáo sĩ tiêm chủng hoặc cứu cho dân làng nào đó thoát khỏi dịch bệnh... đã khiến cho họ hàm ơn mà theo đạo. Cũng có khi một làng gặp thiên tai, dịch họa mà xin theo đạo nhờ vào sự giúp đỡ của các thừa sai để mong được sinh tồn. Chẳng hạn như họ đạo Kon Sơ Lăng bị dịch đậu mùa, lại bị bộ lạc Hơ Drung quấy nhiễu, nhờ một thừa sai cứu giúp để rồi xin lập làng mới.
Hình thức thứ ba: Xứ, họ đạo được thành lập từ chủ trương của trưởng làng này với làng khác. Tính đến thời điểm năm 1930, miền truyền giáo Kon Tum có 17.000 tín hữu thuộc 146 họ đạo người Thượng, phân chia làm 12 địa sở, với 13 giáo sĩ. Trung tâm điểm là Kon Tum.
![]() |
Tòa nhà chính của Trường học - Chủng viện Cuénot, Kon Tum - ảnh: gpkontum
|
2.Tên gọi, cơ cấu nhân sự đảm đương công việc trong giáo xứ, giáo họtrong vùng dân tộc thiểu số ở giáo phận Kon Tum
2.1 Tổ chức Giáo phu
Tiến hành truyền giáo trong vùng dân tộc thiểu số Kon Tum, các giáo sĩ thường đem theo người nhà (tín hữu là người Kinh) ở dưới xuôi (được gọi là Trung châu) lên phụ giúp. Những người này đảm nhiệm công việc sản xuất, giúp các giáo sĩ thực hành thánh lễ. Nhưng do không biết tiếng dân tộc, đặc biệt là không hiểu biết về phong tục, tập quán của người dân tộc thiểu số, nên những người giúp việc là người Kinh gặp không ít khó khăn. Vì vậy, thừa sai Jannin đưa ra ý tưởng: Chúng ta cần những cộng sự người Bahnar được đào tạo một cách nghiêm túc, để tiếp xúc, để đánh giá và chúng ta cũng cần họ ở ngay bên cạnh người đồng bào của họ. Thừa sai Jannin do kiên trì nên cuối cùng ý định của ông được chấp nhận. Năm 1906, Jannin được bổ nhiệm xây dựng trường Cuénot. Ngày 7.1.1908, trường được khánh thành. Công việc đào tạo giáo phu được chính thức bắt đầu.
Phương pháp đào tạo giáo phu trên cơ sở kinh nghiệm đào tạo thầy giảng người Kinh, dựa trên tình hình đặc điểm truyền giáo trong vùng dân tộc thiểu số mà có phương pháp đào tạo đặc thù.
Qua thực tế cho thấy, giáo phu có hai loại: Loại được đào tạo ở Trường Cuénot gọi là giáo phu trường; Loại do linh mục xứ trực tiếp giáo dục kèm cặp gọi là giáo phu làng.
Giáo phu trường chia thành chú giáo phu và thầy giáo phu, tùy theo năm tháng phục vụ và công trạng. Chú giáo phu chia làm 3 bậc: bậc tập sự, bậc nhì, bậc nhất.
Chức vụ thầy giáo phu giữ suốt đời. Thường mỗi làng chỉ có một thầy giáo phu. Khi già yếu họ được nghỉ hưu gọi là giáo phu cựu. Nghỉ hưu họ vẫn được giáo sĩ và cộng đoàn kính nể, vẫn được trợ cấp.
Các giáo phu được tổ chức trong một hội (hội giáo phu - Bol giáo phu). Hội có nội quy, quy định mục đích, bổn phận của giáo phu và được giáo quyền phê chuẩn. Ðó là Luật Chú giáo phu.
Giáo phu làng chỉ thi hành phận sự của mình ở làng của họ. Giáo phu trường, nhất là bậc thầy giáo phu, không nhất thiết ở làng của họ. Họ được cử đến những làng xa xôi linh mục ít có điều kiện đến để giảng dạy kinh bổn, giáo lý. Những làng có giáo phu đến phải có trách nhiệm giúp giáo phu nơi ăn, chốn ở, ruộng đất canh tác để họ ổn định cuộc sống, chăm lo việc đào tạo. Công việc thường xuyên của giáo phu là dạy giáo lý cho trẻ nhỏ, cho người tân tòng, kể cả giáo lý hôn nhân; thực hiện một số Bí tích như Rửa tội, làm chứng cho đôi hôn phối, đưa Mình Thánh cho người hấp hối. Khi trẻ 6 - 7 tuổi, giáo phu cho chúng học kinh, bổn để được xưng tội, chịu lễ lần đầu; Khi trẻ 13 - 14 tuổi đưa chúng đi chịu Bí tích Thêm Sức; lo tống táng người qua đời. Giáo phu lo việc đèn nến ở nhà thờ, nhà nguyện, xướng kinh, hát kinh, cắt đặt người trông coi cơ sở thờ tự, đôn đốc tín hữu trong làng tham gia thánh lễ Chúa nhật, các lễ trọng.
Giáo phu là người đứng đầu Ban Chức việc.
2.2 Ban Chức việc
Tổ chức này thời gian đầu chỉ được thành lập trong các xứ, họ đạo của người Kinh trong giáo phận. Cho đến đầu thế kỷ XX, Ban Chức việc mới thành lập trong các xứ, họ đạo người dân tộc thiểu số. Các chức vụ trong Ban Chức việc gồm: câu và biện. Có thể có câu nhất, câu nhì và biện nhất, biện nhì, biện ba. Do giáo phu có vai trò lớn (như đã đề cập ở phần trên) nên vai trò của Ban Chức việc tương đối mờ nhạt. Ban Chức việc chủ yếu thực hiện các công việc như đôn đốc giáo dân tham dự thánh lễ, nhất là lễ trọng, những dịp cho trẻ xưng tội, chịu lễ lần đầu, lễ Thêm Sức, giữ trật tự trong nhà thờ, đôn đốc giáo dân tham gia vào công việc khác như sửa chữa hay xây dựng nhà thờ, nhà xứ, dọn dẹp nhà thờ...
Ở một số làng, chức câu, biện có thể do giáo phu làng đảm nhiệm. Ðây là những câu, biện chuyên về giáo lý, trợ giúp giáo phu giảng dạy giáo lý, tổ chức thi kinh bổn, có khi xướng, đáp kinh, hát kinh trong nhà thờ thay cho giáo phu. Biện việc còn đảm đương các công việc về hôn nhân, tang chế. Ở những làng lớn chia thành các xóm (đạo), mỗi biện việc đảm đương công việc của một xóm.
Công cuộc truyền giáo vùng dân tộc thiểu số giáo phận Kon Tum có những biểu hiện đặc thù, mà một trong những biểu hiện là việc thành lập xứ, họ đạo. Hình thức tổ chức quản lý với hội giáo phu trong làng đạo Bahnar, Xơ Ðăng, Kõ Khul trong làng đạo Giarai là những hình thức tổ chức độc đáo.
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
Bình luận