Mẹ Maria, người phụ nữ đầu tiên chầu và kiệu Thánh Thể loan báo Tin Mừng. Theo gương Mẹ, chúng ta nên nghĩ tới việc đào luyện tâm linh “Đức tin Thánh Thể” cho người phụ nữ, người mẹ. Tại sao lại là nữ, là mẹ ưu tiên mà không phải là ai khác?
Sau đây, tôi xin chia sẻ ít điều về mục vụ “Hiệp hành, đào luyện nữ Thánh Thể”.
![]() |
Nữ tu Thừa Sai Bác Ái chầu Thánh Thể |
HAI VỊ THÁNH NỮ YÊU MẾN THÁNH THỂ
Trước hết, bắt nguồn từ Phúc Âm. Mẹ cưu mang Chúa Giêsu cứu thế. Tiếp đến, là Maria Madalena và một số bà đạo đức đã được Chúa Giêsu, trao phó sứ mệnh loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các tông đồ. Mặt khác, theo kinh nghiệm lịch sử Giáo hội, người góp phần đầu tiên đổi mới Giáo hội là phụ nữ. Gần đây, có thánh Maria Faustina, phổ biến “Lòng thương xót Chúa”; và thánh Têrêsa Calcutta, sáng lập dòng Thừa sai Bác ái là hội dòng cổ vũ “chầu Thánh Thể và chăm sóc người bị bỏ rơi”. Tôi xin chia sẻ về hai vị thánh này.
1.
Thánh Maria Faustina, sinh1905,tên là Helen. Ngay từ lúc lên 7, Helen đã muốn sống cuộc đời tận hiến cho Thiên Chúa như một nữ tu. Lúc 25 tuổi, khi vào tu, chị đổi tên là Maria Faustina. Công việc của Maria Faustina thật giản dị: nấu ăn, làm vườn và giữ cửa cho tu viện. Đặc điểm: chị tốt bụng, trầm lặng và hồi tâm. Và ít có người biết được chiều sâu đích thực về đời sống tâm linh của Faustina. Thiên Chúa đã chúc lành cho Faustina Maria bằng nhiều ân sủng đặc biệt, kể cả ơn thị kiến, ơn tiên tri và ơn được nhận năm Dấu Thánh cách vô hình. Trong một thị kiến mà Maria Faustina nhận được, Chúa Giêsu đã hiện ra trong y phục màu trắng. Người giơ cao một tay để chúc lành và tay kia thì chạm vào Thánh Tâm Người. Có hai tia sáng phát ra từ Thánh Tâm Chúa, một màu đỏ và một màu nhạt. Tia sáng đỏ tượng trưng cho Máu cứu chuộc của Chúa Kitô, còn tia xanh nhạt biểu trưng nước thanh tẩy trong Bí tích Rửa tội. Chúa nói: “Con hãy cho vẽ lại bức ảnh như con xem thấy Cha, kèm theo dòng chữ: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa”. Chúa đã nói với Maria Faustina, Chúa nhật sau lễ Chúa nhật Phục Sinh, sẽ được gọi là Chúa nhật kính Lòng Thương Xót. Maria Faustina đã viết nhật ký, chép lại mọi điều Chúa muốn cho thế giới biết về Lòng Thương Xót của Người. Trong đó, Maria Faustina đã viết những lời cầu nguyện thật dễ thương, biểu lộ mối tương quan rất mực thân thiết đối với Chúa. Và Chúa nói: “Faustina là thư ký nhỏ của Người”. Trong cuộc đời ngắn ngủi tại thế, Maria Faustina đã thực hiện một sứ vụ quan trọng là cho thế giới biết về Lòng Thương Xót của Chúa Giêsu. Chính công việc đặc biệt của thánh Faustina đã khích lệ nhiều người tin tưởng vào Lòng Thương Xót vô hạn lượng của Thiên Chúa. Chúa hứa ban ơn tha thứ và ân sủng dư tràn cho bất cứ ai tôn sùng Lòng Thương Xót. Và tận hiến cho Lòng Thương Xót: bao gồm tin tưởng vào lòng nhân hậu Chúa, yêu thương tha nhân, năng lãnh nhận Bí tích Hòa giải để luôn ở trong tình trạng có ân sủng và rước lễ ngày Chúa nhật kính Lòng Thương Xót. Chỉ sau 13 năm sống trong bậc tu trì, Maria Faustina về trời, ngày 5.10.1938, vì bệnh lao phổi, vừa tròn 33 tuổi.
2.
Thánh Têrêsa Calcutta, sinh1910tại Nam Tư. Ðủ 18 tuổi, Têrêsa gia nhập dòng Nữ Vương Ðức Bà Loreto ở Ái Nhĩ Lan. Năm 1946, sau khi đã chứng kiến những nạn nhân khốn khổ đầy thương tích và chết chóc, các trẻ em bơ vơ trên đường phố, hậu quả của những biến cố nổi loạn giữa Hồi giáo và Ấn giáo. Ngày 10.9.1946, trên một chuyến xe lửa đi về Darjeeling để điều trị bệnh lao mới phát, Têrêsa nhận ra được tiếng mời gọi của Chúa thúc giục mình phục vụ cho những người nghèo đói khốn khổ. Mẹ Têrêsa kể lại:“Tôi bắt đầu nhận ra tiếng gọi của Chúa kêu mời tôi săn sóc cho những ngườibệnh tật và nghèo đói, những kẻ rách rưới và lang thang - thúc giục tôi ban phát tình yêu của Chúa cho các người khốn khổ và bơ vơ. Sự kiện này đã mở cửa cho bước đầu phục vụ Bác Ái của đời tôi”. Mẹ Têrêsa không chần chờ, đắn đo, và bắt đầu xin phép rời dòng Loreto để thiết lập một nhà dòng mới, được Ðức Giáo Hoàng Piô XII cho phép. Và năm 1948, Mẹ Têrêsa, với chiếc áo dòng cũ kỹ và một vài đồng lẻ trong túi đã đến sống giữa những người Ấn Ðộ như một người Ấn Ðộ. Ðương nhiên Mẹ Têrêsa cũng chọn màu áo xanh xám có những viền xanh (biểu hiệu cho Thánh ý của Thiên Chúa) giống như áo hội dòng của Mẹ. Năm 1952, Mẹ Têrêsa cùng với hội dòng Nữ Tu Bác Ái của Mẹ đã bắt tay vào việc. Hội dòng đã được bản quyền Calcutta cho phép sử dụng ngôi đền Kali đã bị bỏ hoang của Ấn giáo. Mẹ Têrêsa đã biến nó trở thành hội quán Kalighat cho những người nghèo đói đau khổ. Mẹ đã cùng với các cộng tác viêntìm kiếm những người bệnh tật, hấp hối thất thểu ngoài đường phố, đem về săn sóc cho đến ngày họ qua đời. Ðối với những người bệnh tật, Mẹ đã tìm kiếm thuốc thang săn sóc cho họ, đối với những người khổ đau, Mẹ là một nguồn ủi an đem bình an và tình yêu của Chúa đến với họ. Năm 1962, Mẹ được giải thưởng đầu tiên về công việc nhân đạo của Mẹ. Năm 1979, được giải thưởng Nobel Hòa Bình. Năm 1985, được trao Huy Chương Tự Do, huy chương dân sự cao quý nhất của Hoa Kỳ. Mẹ đã dùng tất cả những số tiền giải thưởng này để thiết lập thêm nhiều trung tâm khác. Ngày 5.9.1997, Mẹ Têrêsa đã được Chúa gọi về, hưởng thọ 87 tuổi. Suốt một cuộc đời hy sinh phục vụ cho những người nghèo đói khổ cực, Mẹ Têrêsa, một tôi tớ trung thành của Ðức Kitô, luôn được người người trên thế giới chúc tụng, kính phục và biết ơn vì những tấm lòng hy sinh tràn đầy yêu thương phục vụ. Tinh thần của Mẹ Têrêsa đã in sâu mãi trong lòng mỗi người dân trên thế giới, rất xứng đáng cho giáo dân Việt Nam chúng ta noi gương.
Cả hai đấng đều có lòng sùng mộ Chúa Giêsu Thánh Thể và cổ vũ lòng thương xót. Cả hai vị như người đã tiên báo và thực hiện định hướng của Công đồng Vatican II. Công đồng Vatican II, 1962 - 1965 là Công đồng đổi mới, với chiều kích đại kết và mục vụ. Hướng đi đổi mới của Công đồng là không lên án, nhưng thương xót và chứng tá. Thánh Maria Faustina sống trước Công đồng 24 năm, đã truyền tỏa Lòng Thương Xót. Thánh Têrêsa Calcutta là vị đã sống cùng và sau Công đồng, đã xót thương cứu vớt người bị bỏ rơi. Hai thánh nữ, một đấng ảnh hưởng bởi Thần học tín lý: “Thiên Chúa là Tình yêu giàu lòng thương xót, là thương xót”; một đấng ảnh hưởng bởi đường hướng Thần học Mục vụ của Công đồng. Quả thực, hướng đi đổi mới của Giáo hội Chúa Kitô, bao gồm cả Thần học cả Mục vụ:“Tín lý cao sâu, mục vụ tròn đầy”, đã thể hiện qua cuộc sống của hai vị thánh.
KẾT LUẬN
Ước mơ người phụ nữ, người mẹ, trên thế giới và nhất là Việt Nam, tùy theo đức tin dân tộc, tôn giáo của mình, chọn lựa phương thức đào luyện tâm linh, như: “Thiền định, cầu nguyện thinh lặng”. Riêng người tín hữu phụ nữ Kitô, nên bắt đầu từ Thánh Thể, nguồn tâm linh, hầu đạt “Đức tin - cá vị”. Còn những người phụ nữ khác hãy định tâm, đạt “Định an, định huệ”. Có như vậy, người phụ nữ mới hy vọng góp phần giúp bản thân, gia đình, dòng họ, Giáo hội, dân tộc, nhân loại đạt sự bình an, vượt qua sóng gió của ngàn năm thứ Ba, nền văn minh Biển.
Kinh nghiệm Kinh Thánh cho thấy người nữ Eva, nguyên tổ, vì thiếu đào luyện tâm linh, nên đã dẫn tới tham lam quá mức: “Muốn lên bằng Đức Chúa Trời”. Và vì thế, cũng thiếu khôn ngoan sáng suốt, không nhận ra mối dây “Liên đới - trách nhiệm” với Chúa và với nhau. Hậu quả là sự bất hạnh! Đó là kinh nghiệm của tội “nguyên tổ”, vết xe đổ!
Lm. Gioan Kim Khẩu Nguyễn Văn Hinh (D.Min.)
Bình luận