Phòng truyền thống của dòng Ðức Bà ở Sài Gòn hiện đang lưu giữ một số kỷ vật của hoàng hậu Nam Phương tặng cho các nữ tu có công trong việc lập dòng tại Việt Nam, trở thành một phần của lịch sử hình thành, và phần nào thể hiện mối liên kết sâu sắc giữa vị hoàng hậu cuối cùng của Việt Nam với dòng tu này.
Món quà bất ngờ
Cuộc ra khơi của các vị thừa sai tiên phong dòng Đức Bà bắt nguồn từ những thao thức của Giáo hội vào đầu thế kỷ 20, về sự vắng bóng Thiên Chúa ở nhiều miền phía Á Đông. Năm 1924, các nữ tu dòng Đức Bà đã bày tỏ nguyện vọng sang Việt Nam để mở trường dạy học cho nữ sinh, vì nhận thức được rằng, ánh sáng Tin Mừng chưa thực sự lan tỏa mạnh mẽ tại đây. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khách quan, ước nguyện đó tạm thời được gác lại, chờ đợi một thời cơ mới.
Một thập niên sau, năm 1934, trong một lần yết kiến riêng với Đức Giáo Hoàng Piô XI, mẹ M. du Rosaire, bề trên Tổng quyền của dòng đã trao đổi, trình bày kế hoạch sang Việt Nam để tìm kiếm cơ hội thành lập cộng đoàn tại một đất nước còn nhiều cánh đồng để truyền bá đức tin, và đã đón nhận lời Đức Thánh Cha như một mệnh lệnh: “Các chị hãy bắt đầu thật mạnh mẽ. Đất truyền giáo sẽ có nhiều chông gai - nếu không mạnh dạn, sẽ không thắng nổi thử thách”. Vậy là tháng 9.1934, 12 chị tiên phong rời Paris đi Marseilles để xuống tàu ra khơi đến Việt Nam.
Tựa như các Thánh Tông Đồ ngày xưa, họ đến một vùng đất hoàn toàn mới mẻ, bắt tay vào việc tìm kiếm địa điểm thích hợp để xây dựng nhà dòng và trường nội trú cho nữ sinh. Vào dịp lễ Giáng Sinh, một trong số họ đã tìm thấy một khu đồi gần suối Camly tại Đà Lạt (đồi Lâm Viên), và quyết định tìm cách chọn nơi này làm cơ sở ban đầu của dòng Đức Bà.
Rất ngẫu nhiên, và nói theo ngôn ngữ nhà đạo thì “ý Chúa quan phòng”, đồi Lâm Viên khi đó lại thuộc sở hữu của hoàng hậu Nam Phương - một cựu học sinh trường Les Oiseaux tại Paris do các nữ tu Đức Bà phụ trách - nên họ đã đến gặp bà và bày tỏ mong muốn xây nhà dòng và trường nội trú cho nữ sinh trên ngọn đồi này. Thật bất ngờ, hoàng hậu Nam Phương cho biết đã từng có ý định mời các nữ tu sang Việt Nam để dạy học nhưng chưa có dịp sang Pháp, giờ có cơ duyên đến nên sẵn lòng trao tặng toàn bộ khu đồi cho dòng, không chỉ vì để tri ân các sơ dạy dỗ xưa, mà còn bởi thấy được tầm quan trọng của giáo dục trong việc hình thành một xã hội vững mạnh.
Vốn là một người Công giáo, hoàng hậu Nam Phương đã rất vui mừng vì sự hiện diện của Dòng Đức Bà tại quê hương của mình. Chính vì vậy, về sau bà thường lui tới nhà dòng và tặng nhiều huy hiệu, kim khánh, kim bội… trong dịp này dịp khác. Tất cả như đánh dấu từng chặng đường mà dòng đã đi qua ở một giai đoạn nhất định, trong hành trình 90 năm hiện diện, tính đến hôm nay.
Cuộc tìm kiếm những bảo vật vô giá
Nữ tu Marie Lê Thị Thanh Nga, nguyên Giám tỉnh dòng Đức Bà tại Việt Nam, người đã có công góp nhặt lại những mảnh vỡ ký ức rất đẹp của nhà dòng với vị hoàng hậu có ông ngoại là người xây dựng nhà thờ Chợ Đũi - ông Huyện Sĩ Lê Phát Đạt - đã kể lại câu chuyện “truy tìm kho báu” đầy thú vị.
Theo sơ, ngày trước các món quà của Nam Phương và vua Bảo Đại tặng được các Mẹ tiên khởi nhận rồi lưu giữ cùng các tặng phẩm khác từ nhiều người, nhiều tổ chức trao tặng dòng. Qua thời gian và có sự thay đổi các thế hệ tiếp quản, không ít hiện vật đã bị thất lạc. Khi còn làm Giám tỉnh, nữ tu Thanh Nga trong một dịp sắp xếp lại các tài liệu cũ trong thư viện, đã tình cờ phát hiện hai cuộn giấy cuộn tròn, được cất ở một góc khuất. Khi mở ra, bà không khỏi ngạc nhiên khi nhận ra đây chính là hai bảng danh dự do vua Bảo Đại viết để khen thưởng Mère (tiếng Việt nghĩa là Mẹ) Germain de Jésua và Mère Marie du Rosaire, hai người có công đặt nền móng cho dòng Đức Bà ở nước ta. Kèm theo là một kim bội và một kim khánh. “Khi đọc từng câu tiếng Pháp trên các tờ giấy ấy, tôi cảm thấy vô cùng vui mừng và lấy làm hạnh phúc, vì đây là một phát hiện tuyệt vời, một tài liệu quan trọng đối với lịch sử nhà dòng”- sơ Nga kể.
Bảng danh dự hay còn gọi là bằng khen được viết bằng hai ngôn ngữ: tiếng Hán và tiếng Pháp. Bảng đầu tiên trao tặng năm 1938, phía bên trái được viết bằng chữ Hán, với dòng chữ đỏ ghi quốc hiệu “Đại Nam Quốc”, dòng chữ đen có nội dung: “Ngày 10 tháng 1 năm thứ 17 triều vua Bảo Đại (1938), bộ trưởng nội các hoàng gia trao chứng nhận sắc lệnh của vua tặng bảng vàng danh dự và kim khánh cho nữ tu Marie du Rosaire (bề trên Tổng quyền dòng Đức Bà lúc đó tại Pháp - chú thích của NV)”. Phía bên phải cũng là nội dung này, nhưng được viết bằng tiếng Pháp. Một năm sau, nhà dòng tiếp tục nhận được bảng danh dự thứ hai, giống với bảng đầu tiên về hình dáng nhưng chỉ khác tên, ghi rằng: “Ngày 2 tháng 11 năm thứ 18 triều vua Bảo Đại (1939), bộ trưởng nội các hoàng gia trao chứng nhận sắc lệnh của vua tặng bảng vàng danh dự và kim bội cho nữ tu Germain de Jésua (bề trên dòng đầu tiên ở Việt Nam, một trong 12 nữ tu qua lần đầu kể ở trên - NV)”.
Kèm theo hai bảng danh dự là kim khánh và kim bội cũng của nhà vua ban tặng. Kim khánh tặng cho Mẹ M. du Rosaire được làm bằng vàng, có hình dáng cách điệu như một chiếc khánh, một loại nhạc cụ truyền thống của người Trung Quốc, khắc 4 chữ “Quỳnh Dao Vĩnh Hảo”, mang ý nghĩa cao quý và trường tồn, như một dấu ấn vĩnh cửu của sự trân trọng. Kim bội dành cho Mẹ G. de Jésua cũng làm bằng vàng, khắc 4 chữ “Đại Nam Long Tinh”, thể hiện sự tôn kính và vinh danh từ triều đình (đây là kim bội hạng nhất của nhà vua lúc bấy giờ - NV).
Xin mở ngoặc nói thêm, việc chế tác kim bài, kim khánh, kim bội, ngọc bội dưới thời Nguyễn do Kim ngân tượng cục thực hiện. Kim ngân tượng cục là quan xưởng do vua Minh Mạng cho lập năm 1834, đặt dưới sự cai quản của Sở Nội tạo, là nơi tập trung những người thợ kim hoàn giỏi nhất trong nước, chuyên chế tác các vật dụng bằng vàng, bạc và đá quý để phục vụ cho nhu cầu của hoàng tộc và triều đình. Ngoài Kim ngân tượng cục, triều Nguyễn còn cho mở hai tượng cục khác để chế tác các vật dụng có liên quan đến vàng bạc, là Kim mạo tượng ty chuyên chế tạo mũ mão bằng vàng cho vua và hoàng hậu, Kim tương tượng ty thì phụ trách các vật phẩm có thếp vàng.
Bên cạnh các bảng danh dự và bộ đôi kim khánh và kim bội, phòng truyền thống dòng Đức Bà hiện cũng còn trưng bày một chiếc kim khánh khác do vua Bảo Đại tặng cho Mẹ Saint Thomas d’Aquin trong chuyến bà thăm lại Việt Nam, có khắc 4 chữ “Bảo Đại Niên Tạo”. Mẹ Saint Thomas d’Aquin là người được dòng cử sang Việt Nam tiền trạm năm 1934, đi khắp Hà Nội, Huế, Sài Gòn và một số tỉnh. Giáng Sinh năm 1934, đã đến khu đồi gần suối Camly tại Đà Lạt - là đồi Lâm Viên ngày nay - và khởi ý tưởng chọn nơi đây để xây dựng dòng.
Ngoài ra, vào những năm 1950, một lần hoàng hậu Nam Phương cùng con cái sang Pháp, cũng đã gởi tặng Nhà Mẹ của dòng một bộ Chén Thánh khắc dòng chữ “Nam Phuong Impératrice d’Annam 8 Décembre 1950, En l’Année Sainte”, nghĩa là “Nam Phương Hoàng Hậu nước An Nam tặng vào ngày 8 tháng 12 năm 1950, trong Năm Thánh”. Sau này, bộ Chén Thánh được gởi tặng lại dòng ở Việt Nam, tiếp tục được gìn giữ và sử dụng trong các thánh lễ lớn tại dòng Đức Bà.
Món kỷ vật cuối cùng, cũng là một kỷ vật vô giá của hoàng hậu Nam Phương dành cho dòng Đức Bà, rất đặc biệt nhưng lại không phải là hiện vật, mà là tờ giấy do hoàng hậu tự viết lời kinh dâng hiến của mình dâng lên cho Chúa qua lời cầu nguyện mỗi ngày. Ở chi tiết này, nữ tu Thanh Nga giải thích: “Thời đó, các tín hữu Công giáo có xu hướng tự viết các bản kinh dâng hiến đời Kitô hữu của mình theo ý chỉ riêng, và đọc riêng mỗi tối, trong lúc cầu nguyện”. Mẩu giấy được tìm thấy tại ngôi trường thuộc dòng Đức Bà ở Pháp, nơi hoàng hậu Nam Phương từng theo học.
*
Lật lại lịch sử của một nhà dòng, nhìn ngắm những dấu ấn gắn với các nhân vật của một thời, một triều đại…, chợt nhận ra đức tin nảy sinh văn hóa, và đức tin cũng hòa vào sự phát triển xã hội, trong từng sự việc và con người cụ thể.
Quỳnh Giao
Bình luận