Ông Nguyễn Hữu Hào là thân phụ của Hoàng hậu Nam Phương, từ trần đêm 13.9.1937 tại Sài Gòn; lễ an táng được cử hành tại Đà Lạt ngày 19.9.1937. Sau khi ông mất, gia đình đã tìm một địa điểm để xây lăng mộ cho ông. Khu đất được chọn là một đồi thông gần thác Cam Ly. Con đường từ chân đồi dẫn lên lăng gồm 158 bậc. Lăng xây theo kiểu kiến trúc Á Đông, mái ngói lưu ly xanh, bên trong có hai ngôi mộ lớn bằng đá xanh đặt song song, hình chữ nhật, mặt phẳng, cao khoảng 30cm. Đứng phía ngoài nhìn vào, ngôi mộ bên trái là nơi an nghỉ của ông Nguyễn Hữu Hào, ngôi mộ bên phải lúc làm với mục đích dành để chôn cất bà Lê Thị Bình - vợ ông - sau này, nhưng thực tế đã không diễn ra.
Việc xây cất khởi đầu từ năm 1937, bốn năm sau, năm 1941 thì hoàn tất. Lễ quy lăng định vào ngày 10.9.1941, với sự tham dự của rất đông viên chức chính quyền bảo hộ và triều đình Huế. Phía sau lăng là bia đá khắc một bài văn chữ Hán, kể lại công đức Long Mỹ quận công, là tước mà Hoàng đế Bảo Đại ban cho cha vợ mình. Lời văn lưu loát, trau chuốt, chứng tỏ người viết là một bậc thâm nho. Cuối bia có ghi là do hai con gái, Hoàng hậu Nam Phương nước Đại Nam và Phu nhân Nam tước Didelot Kính cẩn phụng lập.
Đầu bài văn nhắc lại nguồn gốc, quê quán của quận công Long Mỹ:
Hiển khảo Long Mỹ Quận công Nguyễn công bi minh
Lộc Dã chi linh, Tiền Giang chi anh
Chung chi ư nhân, hiền triết đốc sinh.
顯考隆美郡公阮公碑銘
鹿野之靈,前江之英;鍾之於人,賢哲篤生
Dịch nghĩa:
Văn bia tôn vinh Quận công Long Mỹ, người họ Nguyễn.
Khí thiêng Đồng Nai, tinh anh Tiền Giang
Hội tụ nơi người, sinh bậc hiền nhân.
Như thế, ý trong bia ghi ông Nguyễn Hữu Hào sinh trưởng trên đất Đồng Nai, tỉnh Tiền Giang (tên Đồng Nai dịch sang Hán văn thành Lộc Dã), nên thừa hưởng khí thiêng và tinh anh của miền đất Nam Kỳ đó. Vì mọi người đều tin như vậy, nên trên các tài liệu sách báo sau này đều ghi theo hướng này, như trong sách của Lý Nhân Phan Thứ Lang: “Pierre Nguyễn Hữu Hào, nguyên quán Gò Công, sinh trưởng trong một gia đình đại điền chủ, có đạo Công giáo, từng du học bên Pháp, đậu Tú tài toàn phần. Sinh thời, ruộng đất của gia đình ông Hào rải rác khắp các tỉnh Nam Kỳ” (Lý Nhân Phan Thứ Lang, Nam Phương - Hoàng hậu cuối cùng, NXB Thế Giới - 2017). Nhưng thực tế có phải như vậy?
Khi thực hiện quyển Theo dấu Hoàng hậu Nam Phương và Vua Bảo Đại (Nhà Xuất bản Phụ Nữ - 2024), việc đầu tiên của chúng tôi là tìm về đất Gò Công, tỉnh Tiền Giang, xem nhà cửa, đất đai của gia đình Nguyễn Hữu Hào ở đâu, còn lại những gì? Vì tất nhiên, một “gia đình đại điền chủ giàu có” chắc phải để lại những tài sản, đất đai được nhiều người biết. Chẳng ngờ, không một ai ở Gò Công - Tiền Giang biết có một gia đình Nguyễn Hữu Hào, đại điền chủ, đã từng sống ở đó.
Lần giở quá khứ, chúng tôi tra được thông tin ông Phêrô Nguyễn Hữu Hào là con ông Phaolô Nguyễn Văn Cường và bà Lê Thị Thương. Mẹ của ông Cường là em của bà Nguyễn Thị Nhiệm, mẹ của Thánh Mátthêu Lê Văn Gẫm, vị tử đạo bị hành quyết vào giữa thế kỷ XIX, dưới thời vua Thiệu Trị. Gia đình ông Nguyễn Văn Cường sinh sống tại Long Thạnh Mỹ, nơi có vùng đất Gò Công - Trao Trảo, vì có hai con rạch Gò Công và Trao Trảo chảy qua. Sau này, Long Thạnh Mỹ là một phường của quận 9, rồi là phường của thành phố Thủ Đức, hiện nhập vô phường Long Bình, là nơi có một họ đạo Gò Công và còn tập trung nhiều gia đình con cháu dòng dõi Thánh Gẫm, nhưng tuyệt đối không liên quan gì đến Gò Công của tỉnh Tiền Giang cũ.
Ông Hào là con thứ 7 trong gia đình (nên được gọi là anh Tám, theo cách gọi của người Nam bộ: con đầu gọi là thứ Hai, sau đó kế theo thứ tự Ba, Tư, Năm…). Trong số những anh chị em của ông Nguyễn Hữu Hào, chúng tôi chỉ tìm được người thứ 5 tên Nguyễn Linh Dược (Sáu Dược), sinh năm 1844 tại Long Thạnh Mỹ, Thủ Đức; nhưng khi cậu Dược được trên 10 tuổi thì gia đình dọn về khu Xóm Chiếu, Khánh Hội ngày nay. Về sau, ông Nguyễn Linh Dược đi tu, giảng dạy tại Tiểu chủng viện Sài Gòn rồi làm linh mục chánh xứ Xóm Chiếu từ năm 1885 đến 1914. Người thứ 6 tên Nguyễn Thị Gương, sinh năm 1864 cũng tại Xóm Chiếu. Bà Gương đi tu, từng là Tổng Phụ trách Dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán. Đến năm 1866 thì ông Nguyễn Hữu Hào ra đời. Vậy thì không có lý do nào ra đời ở Gò Công, Tiền Giang được, mà chỉ có thể trong vùng Xóm Chiếu, Cầu Kho… mà thôi, do như đã nói ở trên, lối năm 1854 (khi cha Dược 10 tuổi), thì cha mẹ ông Hào đã dọn về ở Xóm Chiếu hay Cầu Kho. Đây là một bằng chứng : trong sổ rửa tội năm 1866 của nhà thờ Cầu Kho, có phần viết bằng chữ Latin vào ngày 25.12.1866 như sau:
“Tôi, linh mục chủ lễ ký tên dưới đây, đã làm lễ rửa tội cho một đứa bé sinh ngày 23.12.1866, con của Paulo Cường và Magdalenna Thương, cư ngụ tại xã Tân Thạnh, tổng Dương Hòa Trung. Đứa bé được đặt tên Petrus Hào. Cha đỡ đầu là Petrus Túc, cư ngụ tại xã Tân Thạnh, tổng Dương Hòa Trung”. Như vậy, ngày và nơi sinh chính xác của ông Nguyễn Hữu Hào là ngày 23.12.1866, tại xã Tân Thạnh, tổng Dương Hòa Trung. Theo bản đồ Sài Gòn - Gia Định cũ, xã Tân Thạnh nằm sát rạch Bến Nghé. Bên kia rạch là Vĩnh Hội và khu Xóm Chiếu… Ngày nay, xã Tân Thạnh xưa và ở ngay bên dưới là xã Tân Hòa xưa đều thuộc khu vực Cầu Kho, quận 1, TPHCM.

Ngoài ra, còn một chứng từ hộ tịch khác là bản khai kết hôn giữa ông Nguyễn Hữu Hào và bà Lê Thị Bình, cha và mẹ Hoàng hậu Nam Phương. Sở dĩ việc truy tìm nguồn gốc gia đình ông Nguyễn Hữu Hào rất khó khăn, vì người cha Nguyễn Văn Cường tuy có ít nhất 7 người con nhưng ngoài ông Nguyễn Hữu Hào cùng một người anh là linh mục Dược và một người chị là nữ tu MTG Chợ Quán, thì không thể tìm được dấu vết nào về những người còn lại. Có một điều đặc biệt nữa là ông Nguyễn Hữu Hào sinh ra trong một gia đình Công giáo, nhưng không phải giàu có như mọi người tưởng, mà rất khiêm tốn. Cũng vì gia đình mộ đạo, có anh chị là tu sĩ, trong đó có người anh là cha Dược dạy ở Tiểu chủng viện Sài Gòn, nên cậu Phêrô Nguyễn Hữu Hào được linh mục Lucien Mossard (sau này làm giám mục Đại diện Tông Tòa địa phận Tây Đàng Trong) nhận vào học tại đây (thuần học văn hóa chứ không phải theo ơn gọi tu trì như những tiểu chủng sinh khác), sau đó lại được cha Mossard giới thiệu vào dạy học trường Taberd, rồi làm thêm công việc sổ sách, kế toán cho gia đình Huyện Sĩ Lê Phát Đạt. Cũng vì tính cần mẫn và ngoan đạo nên ông được gia đình này ưng thuận gả con gái Lê Thị Bình cho.
Lễ đăng ký kết hôn diễn ra tại tòa Đốc lý Sài Gòn ngày 12.11.1902, giữa một bên là Phêrô Nguyễn Hữu Hào, 32 tuổi, sinh ngày 1.7.1870, tại làng Tân Hòa, tổng Dương Minh, tỉnh Chợ Lớn (Nam Kỳ), giáo viên Trường Taberd, cư ngụ tại Sài Gòn, con của Nguyễn Văn Cường và Lê Thị Thương; và bên kia là cô Maria Lê Thị Bình, 23 tuổi, sinh ngày 27.2.1879 tại làng Tân Hòa, tỉnh Chợ Lớn, không nghề nghiệp, con của Philipphê Lê Phát Đạt (đã mất), sinh tiền nhập tịch Pháp, cựu Huyện hàm, hội viên Hội đồng Quản hạt, và bà Huỳnh Thị Tài, nghiệp chủ, cư ngụ tại làng Tân Hòa, tỉnh Chợ Lớn. Trong bốn nhân chứng của buổi lễ có hai người anh của cô dâu là Gioan Baotixita Lê Phát Thanh và Denis Lê Phát An, đều khai cư ngụ tại làng Tân Hòa, tỉnh Chợ Lớn. Sổ khai kết hôn và các tài liệu hộ tịch của thành phố Sài Gòn và các tỉnh Nam Kỳ nay được lưu trữ tại Trung tâm Văn khố Hải ngoại Pháp, thành phố Aix-en-Provence. Sau khi kết hôn, ông Nguyễn Hữu Hào, với sự giúp đỡ của gia đình Huyện Sĩ Lê Phát Đạt, mới bắt đầu tạo dựng sự nghiệp, trở nên giàu có từ đó.
![]() |
![]() |
Bản khai kết hôn của ông Nguyễn Hữu Hào và bà Lê Thị Bình tại tòa Đốc lý Sài Gòn
So sánh hai tài liệu: sổ rửa tội tại nhà thờ Cầu Kho và bản khai kết hôn tại tòa Đốc lý Sài Gòn, thì khi kết hôn ông Nguyễn Hữu Hào khai năm sinh là 1870, thay vì 1866 như trong sổ rửa tội, sụt đi bốn tuổi, nhưng theo chúng tôi, việc trên các giấy tờ khác nhau có năm sinh khác nhau vào thời điểm đó ở nước ta là rất thường gặp; và nơi sinh là xã Tân Hòa, thay vì xã Tân Thạnh, nhưng hai xã đó lúc bấy giờ nằm liền kề nhau. Vào đầu thế kỷ XX thì hai xã này thuộc Chợ Lớn, nhưng ngày nay là khu vực Cầu Kho, TPHCM. Từ những tài liệu này, chúng ta có thể khẳng định là quê quán ông Nguyễn Hữu Hào là vùng Cầu Kho, thành phố Sài Gòn; lui xa hơn nữa thì nguyên quán là vùng Long Thạnh Mỹ, Thủ Đức, nơi có nhà thờ Thánh Gẫm và họ đạo Gò Công, không liên quan gì đến Gò Công vùng Tiền Giang.

Vậy tại sao bia đá tại lăng Nguyễn Hữu Hào do chính hai người con gái ông là Hoàng hậu Nam Phương - Mariette Nguyễn Thị Lan và chị là bà Agnès Nguyễn Thị Hương - phu nhân Nam tước Didelot đặt lại khắc sai?
Câu trả lời không khó khăn gì lắm: Từ khi cô Mariette Nguyễn Thị Lan về làm dâu triều Nguyễn và được tấn phong hoàng hậu năm 1934, mọi người mới biết đến cái tên Nguyễn Hữu Hào, nhưng không ai biết ông từ đâu đến, gia đình họ hàng không có ai, ngoại trừ một người anh và một người chị là tu sĩ cũng không mấy nổi tiếng. Thấy ông danh giá, giàu có, nên có suy đoán là ông Nguyễn Hữu Hào sinh ra trong một gia đình “ruộng đất trải dài khắp Nam Kỳ, quê ở Gò Công”, và chắc chắn không biết đó là vùng Gò Công - Trao Trảo, quê hương của Thánh Gẫm, cũng là quê ông Hào, thuộc TPHCM ngày nay. Chỉ một số rất ít người biết chuyện nhưng không ai lên tiếng đính chính, vì một phần sợ liên quan đến triều đình, phần khác họ chỉ là những người dân quê bà con xa ở ngoại vi Thủ Đức. Sự hiểu lầm này kéo dài cho đến khi ông Nguyễn Hữu Hào mất thì gần như mất dấu, không còn ai nói đến.
Lúc hoàng hậu và bà Agnès muốn dựng bia để tưởng nhớ cha, có người giới thiệu một nhà nho uyên thâm để viết bài văn bia. Vị này tuy kiến thức sâu rộng nhưng cũng tin như mọi người rằng “Long Mỹ quận công” quê ở Tiền Giang. Rồi bài văn viết xong, khắc lên bia, chắc cũng không ai dịch và giải thích cho hoàng hậu từng chữ, từng câu trong hơn 250 chữ. Mà cũng chưa chắc là vào lúc đó, Hoàng hậu Nam Phương biết được có sự lầm lẫn về địa danh quê quán thân phụ bà ; còn người chị thì đã theo chồng sang Pháp ở. Chính vì thế mà sự hiểu lầm vẫn kéo dài cho đến ngày nay, sau gần 90 năm.
Cũng vì đinh ninh là quê quán quận công Long Mỹ ở Tiền Giang nên nhiều người đã muốn tìm nguồn gốc địa danh này. Không thấy nơi nào ở Tiền Giang có tên Long Mỹ, người ta tìm được một làng tên Long Mỹ gần Cần Thơ trong tỉnh Hậu Giang, nên suy luận làng Long Mỹ đó là “nơi ông Nguyễn Hữu Hào có hơn một ngàn mẫu ruộng”, là tên đất đã được dùng để đặt tước hiệu cho quận công. Trong khi, ở quê hương Thánh Gẫm - anh bạn dì ruột của ba ông Hào - ngày xưa có làng Long Thạnh Mỹ, do sự sáp nhập của ba làng cũ Long Hậu, Chí Thạnh và Mỹ Thạnh. Phải chăng chữ Long Mỹ là do đọc tắt viết giản lược?

Cần nói rõ thêm một chi tiết, trong lăng có xây hai phần mộ. Một là nơi chôn cất ông Nguyễn Hữu Hào, mộ bên kia dành cho bà Lê Thị Bình về sau này. Nhưng bà Lê Thị Bình đã sang Pháp sống gần con gái đầu thập niên 1950. Bà từ trần tại Pháp năm 1964 và được chôn cất trong nghĩa trang Montparnasse tại Paris, cho nên trong lăng trên đồi thông Đà Lạt, Long Mỹ quận công vẫn an nghỉ một mình, vĩnh viễn vắng bóng phu nhân.
Tóm lại, vì ông Phêrô Nguyễn Hữu Hào xuất thân trong một gia đình khiêm tốn, ruột thịt cận kề hầu như không còn ai, tài sản cũng mới được tạo dựng về sau, nên những thông tin về ông và về nguồn gốc gia đình ông phần lớn chưa chính xác, chủ yếu là qua những lời suy đoán, được lặp lại trong gần 90 năm và nhiều người nghĩ đó là dữ liệu đúng. Vì vậy mà, hành trình đi tìm sự thật của chúng tôi, với những chứng cớ cụ thể như vừa kể ở trên, có lẽ cũng sẽ không dễ mà đính chính trong ngày một ngày hai những điều mà mọi người đã hiểu lầm trong gần một thế kỷ, và khắc vào bia đá.
VĨNH ĐÀO - NGUYỄN THỊ THANH THÚY
Bình luận