Các báo cáo gần đây tiết lộ mức độ tàn phá của lĩnh vực thời trang đối với môi trường ở những nước đang phát triển, và “thủ phạm” là những nhãn hiệu nổi tiếng của phương Tây.
Thoạt nhìn, chẳng ai chú ý đến một khu đất rộng, chất đầy gỗ, ở vùng ngoại ô thủ đô Phnom Penh của Campuchia. Tuy nhiên, đối với các nhà nghiên cứu như tiến sĩ Laurie Parsons của Ðại học London (Anh), những gì diễn ra ở đây phản ảnh một thực tế vẫn luôn bị che giấu lâu nay: rừng ở Campuchia đang bị khai khác trái phép lấy gỗ để dùng làm nhiên liệu vận hành nhà máy thi công cho các nhãn hàng lớn của Tây phương.
![]() |
Rừng bị tàn phá để lấy gỗ
Theo tạp chí VICE, tiến sĩ Parsons đã sử dụng thiết bị bay không người lái thu thập những hình ảnh nhằm phơi bày tình trạng phá hoại môi trường đến từ những chuỗi cung ứng của phương Tây ở các nước đang phát triển. Trong số này, nhà bán lẻ Lidl (Ðức) đứng đầu danh sách các nhãn hàng có liên quan đến nạn phá rừng ở Campuchia. Những cái tên khác có thể kể đến là Gap, Levi Strauss và Ralph Lauren.
“Các nhãn hãng tiếp tục nói không với nạn phá rừng và rác thải, nhưng nhiều nhà máy mà họ hợp tác lại đang đốt một khối lượng khổng lồ gỗ rừng”, theo tiến sĩ Parsons. Ông dẫn đầu dự án nghiên cứu kéo dài 18 tháng, trước khi tập hợp các phát hiện thành báo cáo mang tên “Thương mại thảm họa: Dấu ấn ngầm của hoạt động sản xuất mà Anh để lại ở các nước ngoài”. “Một trong ba nhà máy ở Campuchia hiện đốn củi làm nhiên liệu”, theo kết luận của báo cáo đăng hôm 13.10.
Không giống các “hung thủ” khác như hoạt động của ngành hàng không, vai trò gây ô nhiễm của ngành công nghiệp dệt may toàn cầu thường xuyên bị người tiêu dùng bỏ qua. Tuy nhiên, những năm gần đây, dệt may được mô tả là “ngành công nghiệp gây ô nhiễm nhiều thứ hai thế giới”, chỉ sau nhiên liệu hóa thạch. Trong khi đó, Ngân hàng Thế giới xác nhận đây là ngành chịu trách nhiệm cho lượng phát thải carbon cao hơn cả hoạt động hàng không và hàng hải quốc tế gộp lại.
Theo tiến sĩ Parsons, vấn đề ở đây chính là hoạt động phá hoại môi trường bị ẩn giấu bên trong các chuỗi cung ứng nước ngoài và khó truy vết. Dù các quốc gia phương Tây siết chặt các quy định trong nước, họ lại phớt lờ những gì diễn ra bên ngoài biên giới, nơi đang sản xuất cho các công ty của Âu Mỹ.
![]() |
Củi được vận chuyển sang nhà máy kế bên |
Phần rừng bị mất tương đương diện tích Israel
Campuchia là nước được Anh lựa chọn để chuyển hướng phát thải carbon thông qua các dây chuyền dệt may. Báo cáo ghi nhận quốc gia Ðông Nam Á sản xuất hơn 40.000 tấn trang phục cho thị trường Anh mỗi năm, chiếm 4% nhu cầu thời trang theo mùa của nước này. Ðể rút ra kết luận trên, tiến sĩ Parsons phát hiện ít nhất 31% trong số 558 nhà máy thuộc Hiệp hội các nhà sản xuất dệt may Campuchia (GMAC) sử dụng nhiên liệu gỗ rừng bất hợp pháp. Ít nhất 592 tấn gỗ rừng đã được sử dụng mỗi ngày nhằm phục vụ nhu cầu tạo ra hơi nước dùng cho sản xuất của ngành công nghiệp dệt may, tương đương khoảng 205.130 tấn/năm.
Tình trạng trên càng làm nghiêm trọng hơn tốc độ phá rừng ở Campuchia, vốn thuộc nhóm quốc gia có rừng bị biến mất nhanh chóng trong những thập niên gần đây. Từ năm 2001 đến 2018, Campuchia mất 24% diện tích rừng bao phủ, tương tương diện tích của Israel. Hậu quả là môi trường hoang dã bị hủy hoại, những động vật bản địa như hổ Ðông Dương lâm vào tình cảnh bị tuyệt chủng bên trong biên giới của chúng. Không dừng lại ở đó, khoảng 15% số nhà máy thừa nhận đã đốt rác dệt may (đa số làm bằng nhựa và acrylic) phục vụ nhu cầu sản xuất, thải ra “dạng khói đen nhất, dày nhất mà con người có thể tưởng tượng”.
Việc đốt rác khiến chất lượng không khí ngày càng xấu đi, gia tăng tình trạng ô nhiễm ở Campuchia. Cuộc sống của người dân ở gần đó càng thêm khó khăn hơn. “Khói thải đặc biệt không tốt cho sức khỏe con người, tạo ra những màng bám dày lên nhà cửa và đồ nội thất. Người địa phương phải tạm rời khu vực vào thời điểm nhà máy đốt rác dệt may”, tiến sĩ Parsons cho biết.
Trong khi nghiên cứu của chuyên gia Anh đã cung cấp thông tin đầy đủ nhất đến thời điểm này về mức độ của nạn phá rừng lấy củi làm chất đốt ở Campuchia, bước tiếp theo là làm sao thay đổi tình trạng đó. Một số hãng đã tìm cách cải thiện sự giám sát trong chuỗi cung ứng, chẳng hạn như H&M (Thụy Ðiển) cử người theo dõi, nhằm đảm bảo bền vững về môi trường tại khu vực sông Mê Kông trong những năm gần đây. Tuy nhiên, giáo sư Katherine Brickell, đồng nghiệp của ông Parsons, cho rằng các phát hiện trên là lời cảnh tỉnh cho những người tiêu dùng. Ðã đến lúc suy ngẫm lại về thói chạy đua theo xu hướng thời trang, mua sắm nhiều hơn nhu cầu và phớt lờ trước các ảnh hưởng gây ra đối với môi trường xung quanh.
|
HỒNG HOANG
Bình luận