Trong Cựu Ước, từ “thánh” được dùng để chỉ những người được tuyển chọn, được tách riêng ra để thi hành sứ mạng Chúa giao phó. Trong Tân Ước, từ ngữ này được dùng để chỉ các Kitô hữu (x. Cv 9,13; 31-41; 1Cr 1,1; Rm 16,2). Các Kitô hữu được gọi là các thánh vì họ được Thiên Chúa tuyển chọn. Nhờ ân sủng Chúa Thánh Thần, tín hữu được tham dự vào chính sự thánh thiện của Thiên Chúa, làm nên dân tộc thánh thiện, được mời gọi dùng chính bản thân con người và đời sống mình làm thành hy lễ thánh thiện hiến dâng Thiên Chúa. Dần dà về sau, Kitô hữu nhận thấy sự thật này là dù đã được chết đi cho con người cũ và sống lại với Chúa Kitô trong sự sống mới thì cuộc sống của họ dường như ít đổi thay và cũng có không ít người chưa vượt qua được chước cám dỗ “ngựa quen đường cũ”. Thế là hai từ các thánh thường chỉ dành riêng cho những người có lối sống trổi vượt về đức hạnh. Trong số những người có đời sống đạo hạnh thì càng về sau người ta lại chỉ dành chữ “thánh” cho những ai đã qua đời.
![]() |
Tâm lý muốn được “phong thánh”, một ước mong chính đáng
Là Kitô hữu, ai cũng có cám dỗ muốn được người khác nhìn nhận phẩm giá của mình. Một chước cám dỗ tự nó không phải là xấu. Xuất hiện ở đời này, theo năm tháng khi trí khôn phát triển, con người dần khám phá bản thân và tự ý thức về sự hiện hữu của mình. Khi biết được đây là tôi, thì tôi lại muốn tha nhân nhìn nhận đây chính là tôi. Khi người khác nhìn nhận đây là tôi thì vẫn chưa đủ. Tôi còn muốn tha nhân công nhận tôi là thế này, tôi là thế kia theo những tiêu chí mà xã hội mỗi thời trân trọng. Có lẽ thuở sơ khai, con người thích chứng tỏ mình “mạnh” hơn. Mình mạnh hơn nghĩa là mình xứng đáng có quyền làm đầu với sức mạnh của cơ bắp. Xã hội phát triển dần lên thì con người muốn chứng tỏ mình là có tài hơn, khôn ngoan hơn. Lúc này con người muốn đứng trên kẻ khác bằng tài năng, bằng trí khôn của mình. Cám dỗ muốn chứng tỏ mình đạo đức hơn xem ra tinh tế và đáp ứng được khát vọng của nhiều người hơn. Dù tôi không được khôn ngoan, dù tôi kém tài hay yếu sức nhưng tôi rất có thể sống đàng hoàng, đức hạnh hơn ai đó. Và thế là cũng có cái để hơn người. Quả thật, thiên hạ thường nể sợ những người mạnh sức, thông minh, lắm tài, nhưng lại mến mộ người đạo hạnh cho dù họ ở cương vị nào, thân phận ra sao. Mong ước được phong thánh nghĩa là muốn được nhìn nhận phẩm hạnh của mình là một ước mong chính đáng và tốt đẹp. Đây là một trong những nét trổi vượt của con người so với các loài thọ tạo hữu hình khác.
Sợ phải làm thánh, chuyện bình thường kiếp người
Trong khi vẫn muốn sống tốt hơn, đạo đức hơn, thì con người lại bị một sức ì, một lực cản cầm giữ. Thánh Phaolô cảm nghiệm nơi bản thân ngài: “Những điều tôi muốn thì tôi không làm, còn những điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,15). Chúng ta thật khó chối bỏ một hiện thực trong kiếp người như thánh Phaolô thú nhận: “Tôi khám phá ra luật này: khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa, nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể của tôi” (Rm 7,21-23).
Xu hướng vị kỷ một cách nào đó đã và đang tồn tại trong mỗi người. Dù biểu lộ dưới nhiều hình thức, nhưng thảy đều có điểm chung là “có lợi cho mình”. Xét theo khía cạnh tiêu cực thì càng ít điều thiệt cho mình thì càng tốt. Bên cạnh đó hầu như ai cũng ngại hy sinh, sợ gặp sự khó, gặp điều không hay, sự chẳng may. Xu hướng vị kỷ này còn cám dỗ con người muốn sống yên phận. Người ta sao thì mình vậy. Sống khác người làm chi cho thiệt thân. An thân, thủ phận trong đám đông là một cách thế khôn ngoan kiểu thế gian. Tín hữu giáo dân thường có suy nghĩ “miễn sao được lãnh nhận các Bí tích là đủ rồi”. Cái lý do thường được viện dẫn quả có tình có lý. Mình có hơn gì ai. Một con én không làm nên mùa xuân. Không nên làm nổi, chơi trội, khác người. Nếu không được gì hoặc giả có sơ suất nào thì tiếng tăm khó mà che được. Tuy nhiên, rà soát sâu xa tận đáy lòng thì chúng ta có thể nhận ra chước cám dỗ này đó là ta ngại phải sống tốt hơn. Muốn được phong thánh mà lại sợ phải sống thánh thiện hơn, phải bỏ mình hơn, quảng đại hơn. Đến đây thì ta mới thấy cái xu hướng vị kỷ hiện rõ mặt thật.
![]() |
Đường nên thánh
Chúng ta đừng quên Chúa Giêsu đã từng mời gọi mọi chúng ta: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48).
Đến thế gian, Chúa Kitô thường mời gọi những nguời muốn nhận ơn lành của Người hãy tin vào Người. “Đức tin của con đã cứu chữa con; Bà tin sao thì được vậy; Anh có tin không ?...”. Như thế tin vào Đức Kitô là một điều kiện ắt có để đón nhận ơn lành của Người. Thánh Phaolô Tông đồ trong hai thư gởi giáo đoàn Rôma và Galata đã nỗ lực minh chứng rằng, chúng ta được nên công chính là nhờ tin vào Đức Kitô chứ không do bởi công nghiệp chúng ta. Tuy nhiên, đặt sự hy vọng hay niềm tin cậy vào Đức Kitô không phải là một tình cảm, cũng không chỉ là quyết định một lần nhưng là một quá trình dõi theo con đường Đức Kitô đã đi, đó là con đường sống đức ái bằng “Tám mối phúc thật”. Đường vào thiên quốc là “con đường hẹp” (Mt 7,13-14), là con đường “vác thập giá mình” (Mc 8,34-38). Con đường nên thánh được hình thành bởi tấm lòng hướng tha, biết nghĩ đến thiện ích của người khác.
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa - GP Ban Mê Thuột
Bình luận