Tết Nguyên đán, hay Tết Cả là ngày quan trọng bậc nhất của dân Việt xưa nay. Vào thời Hậu Lê (1428-1789), dân lành hay vua quan, dịp này đều là “tháng ăn chơi”. Từ chốn nhân gian cho đến trong cung đình, không khí Tết cũng như những trò vui tiêu khiển đủ hình thức diễn ra xôm tụ.

Dân vui chơi, hát múa
Ghi nhận của Samuel Baron trong tác phẩm Mô tả vương quốc Đàng Ngoài (tựa gốc: A description of the Kingdom of Tonqueen) xuất bản năm 1685 viết, trong hoạt động ăn Tết, chơi Tết của người dân Đàng Ngoài, “ngoài những vũ điệu và trò tiêu khiển, người dân còn tổ chức đá bóng [trò vật cầu hoặc đánh phết] và đánh đu trên những cột đu được dựng ở hầu hết các góc phố. Ở mọi nơi đều thấy biểu diễn những trò khéo và những trò ảo thuật để mua vui cho mọi người”. Những vũ điệu và trò tiêu khiển mà Baron nhắc tới, đã được ông đề cập trước đó cũng ở sách này, là ca hát, múa đèn, chọi gà, đi cà kheo, múa võ, xiếc, đá cầu... Ngay trong sách đã có nhiều tranh vẽ minh họa nghệ thuật trình diễn và một số trò chơi dân gian của người Đàng Ngoài thời Hậu Lê. Hình ảnh đá cầu, làm xiếc, giữ thăng bằng trên dây… cũng xuất hiện trong những bức tranh ấy.
Thú tiêu khiển trong đại chúng dịp Tết thời Lê - Trịnh còn được củng cố thêm dữ liệu qua miêu tả của William Dampier trong Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688 (tựa gốc: The Voyage to Tonquin), cho thấy tính hiếu kỳ cũng như sự thu hút, hấp dẫn của các trò chơi, giải trí. Có đoạn, tác giả người Anh ghi: “Những người này bỏ thì giờ ra để đánh bạc hay chơi mọi trò chơi, và người ta thấy ngoài đường phố đông nghịt những người. Cả ở thành thị cũng như nông thôn, dân hết sức chăm chú đứng xem tất cả các thứ trò chơi ấy”.
Với trò chơi đánh đu, vẫn tác giả đến từ xứ sở sương mù chép: “Có những người đem dựng những cây đu ở ngoài phố và lấy tiền của những ai muốn lên đánh đu [… ]. Những người leo lên cây đu thì đứng thẳng trên một thanh đặt ngang ở phía dưới, hai đầu thanh này buộc vào hai chiếc thừng treo lên mà họ dùng hai tay nắm cho thật chắc, rồi họ đánh đu người lên tới một độ cao lạ lùng”. Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương trong bài thơ Đánh đu đã nói tới thú vui này khi thả thơ “Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới, Hai hàng chân ngọc duỗi song song”…
Riêng với nghệ thuật sân khấu, Jean-Baptiste Tavernier ghi nhận trong Tập du ký mới và kỳ thú về vương quốc Đàng Ngoài (tựa gốc: Relation nouvelle et singulière du Royaume de Tunquin), chèo tuồng là bộ môn nhận được sự yêu thích của đông đảo các tầng lớp nhân dân, kể cả vua quan. Với cảnh trí trang hoàng lộng lẫy, sân khấu rộng rãi thích mắt, đào kép có thể diễn tả được cả những hành động khó liên quan đến chiến trận, sóng nước… “Ở hai bên sân khấu, mỗi bên có một cái buồng rất đẹp dành cho nhà vua khi nào ông tới xem”. Các công ty nước ngoài thời đó làm ăn ở Đàng Ngoài cũng ghi nhận, với vua Lê, chúa Trịnh và quan lại, thú vui dịp Tết là việc xem các tuồng hát.
Jérôme Richard trong cuốn Lịch sử tự nhiên, dân sự và chính trị xứ Đàng Ngoài (Histoire naturelle, civile et politique du Tonquin) cũng dành một đoạn để nói về vui chơi dịp Tết dân gian thời Lê Trung Hưng (1533-1789): “Trong thời gian này, tất cả những trò tiêu khiển nổi tiếng tập trung ở các nơi công cộng hoặc ở trong nhà. Người ta chỉ nghe thấy khắp mọi nơi âm thanh của những nhạc cụ. Người ta dựng những khán đài ở góc phố trình diễn những vở chèo hề mua vui cho giới bình dân”.
Vua lễ lạt, vi hành
Cương mục ghi nhận thời Hậu Lê, ở đầu thời trị vì của vua Lê Thái Tông, ngày Mùng Một tháng Giêng năm Giáp Dần (1434): “Tết Nguyên đán, nhà vua dẫn đầu trăm quan đi bái yết thái miếu”. Đến năm sau, nhằm năm Ất Mão (1435): “Tết Nguyên đán. Nhà vua dẫn đầu trăm quan đi bái yết thái miếu. Lúc trở về cung, nhà vua mặc đồ trắng, ra coi chầu, tiền hô hậu hét. Cử nhạc. Bầy tôi đều mặc áo phục, dâng biểu yên ủi nhà vua”. Ngày Mùng Một Tết Nguyên đán được biết đến là tiết Chính đán. Trong triều, tiết Chính đán được tổ chức rất trang trọng, quy định thành lễ nghi kỹ càng từ thời Lê sơ. Hình dung của tiết Chính đán còn được lưu giữ nơi Lịch triều hiến chương loại chí phần “Lễ nghi chí”, viết rõ các bước tiến hành, cách thức lễ Chính đán thời vua Lê - chúa Trịnh.
Đúng sáng Mùng Một Tết, bá quan văn võ mặc phẩm phục tề tựu đông đủ ở sân điện Kính Thiên chầu mừng đức vua. Lễ được cử hành bắt đầu khi trống canh năm điểm lần thứ năm. Mọi nghi thức, lễ tiết đều theo các bước quy củ, có trống lệnh, nhạc xướng, cờ xí, khí giới trang nghiêm. Mỗi một bước tiến hành lại có lời tâu, lời chúc. Riêng lời chúc vua, nội dung được ghi: “Khâm sai tiết chế thủy bộ chư doanh tên là..., cùng công hầu bá và các quan văn võ vâng chỉ của chúa kính cẩn dâng lời: nay gặp tiết Chính Nguyên đán, chúng tôi kính nghĩ rằng Hoàng đế bệ hạ vâng chịu mệnh trời, sáng cầm nghiệp lớn, gặp ngày chính đán, thêm hưởng phúc lành, chúng tôi khôn xiết vui mừng chúc tụng, kính chúc nhà vua sống lâu muôn năm”. Đáp lại, quan truyền chế tuyên đọc lời chúc của vua: “Hoàng thượng chế viết: Thái hanh chi khánh, dữ khanh đẳng đồng chi” (Hoàng thượng chế rằng: Phúc thịnh vượng hanh thông, với các ngươi cùng hưởng).

Nghi thức lễ Chính đán này cũng để lại ấn tượng trong con mắt người phương Tây, khi nhà truyền giáo người Ý G.F de Marini (1608-1682) thông tin vào ngày này, vua Lê “ra thiết triều tại đại điện, các đại thần đã túc trực sẵn, các hoàng tử vào tung hô trước; tiếp đến các văn quan rồi mới đến các võ thần, các đình thần triều bái xong, đức vua lui vào cung để nhận lễ của hoàng hậu, các bà phi, các cung tần và các thị nữ”.
Đầu Xuân năm mới, đấng thiên tử đại diện cho muôn dân, mà cũng được xem là “con trời”, thế nên không ngạc nhiên khi vua thường thực hiện một số lễ nghi mang tính chất tâm linh. Trong đó, việc tế Giao là một nghi lễ quan trọng trong tín ngưỡng trời đất. Như năm Bính Tuất (1706), Việt sử cương mục tiết yếu ghi lại, tháng Giêng năm ấy đời vua Lê Dụ Tông (1705-1729) thực hiện tế Giao. Hoặc nơi Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho hay, tháng Giêng năm Canh Tuất (1730), đời vua Lê Đế Duy Phường cũng thực hiện tế Giao. Viết về lễ tế Giao do vua Lê thực hiện, Phạm Đình Hổ có chép trong Vũ trung tùy bút; Phan Huy Chú thuật chi tiết trong Lịch triều hiến chương loại chí. Sau này, sách Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam (Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề) cũng có nhắc. Ở đây, chúng tôi dẫn theo Vũ trung tùy bút. Theo đó, lễ tế Giao được thực hiện khởi từ đời Lý (1009-1225). Tế Giao được thực hiện tế các thần Hiệu thiên thượng đế, Hậu thổ địa kỳ, Thừa tướng đường, thần Đại Minh, Dạ Minh cùng các vị tinh tú ở trên trời, các vị đế vương đời trước.
Nghi thức tế được Phạm Đình Hổ cho biết: “Đời Lê, cứ trong ba ngày Xuân đán, chọn ngày nào tốt thì làm lễ tế Giao. Từ Trung Hưng trở về sau […], đến ngày Xuân thủ thì vua mới ra dự tế Giao, cùng ngày thi hội, vua ra ngự điện Giảng Võ, lúc bấy giờ mới dàn bày lỗ bộ, uy nghi rước xách, nhân dân truyền làm thịnh sự. Cứ lệ cũ thì tế Giao phải chi ra một trăm bốn mươi lăm quan, năm tiền, năm mươi tư đồng. Bộ Hộ lĩnh món tiền ấy ở Hộ phiên rồi giao cho các viên giám thừa ở Tư lễ cục biện lễ. Cứ lệ thì trước vị thượng đế, địa kỳ, bày lễ chay tam tài và hoa quả chuối tiêu, còn đôi bên tả hữu hành lang, thì theo thứ tự giảm bớt dần, đồ lễ không có ngọc liệu sát sinh gì cả. Lúc tế thì đặt chỗ đứng của Hoàng thượng ở giữa ngự đạo trong điện đình, chỗ đứng của Vương thượng thì ở xích về bên tả ngự đạo, rồi đến chỗ đứng của quan Tiết chế. Các quan từ nhị phẩm trở lên lễ ở ngoài lần cửa thứ nhất, tam tứ phẩm trở xuống thì lễ ở ngoài lần cửa thứ hai. Lúc tế rất giản lược, chỉ có lễ thượng hương rồi đọc tờ tấu, trước sau lạy tám lạy mà thôi”.
Cũng có năm, tế Giao do chúa thực hiện. Bài thuyết trình “Hà Nội thời người Bồ Đào Nha và Hà Lan” do Henri Bernard thực hiện tại Hội Địa dư năm 1938 có thông tin dịp năm mới Mậu Thìn (1628), chúa Trịnh Tráng đã làm lễ tế trời ở đàn Nam Giao phía Nam Thăng Long. Hoặc có năm vua Lê Hiển Tông phải cư tang, chúa Trịnh nhiếp tế nhưng “năm ấy thóc lúa mất mùa, giặc cướp tứ tung, thiên hạ ca thán đổ lỗi tại chúa Trịnh vào nhiếp tế”, Vũ trung tùy bút ghi.
Ở một đất nước “dĩ nông vi bản”, hoạt động khuyến nông nhân dịp năm mới rất được vua Lê chú trọng. Khi sống ở Đàng Ngoài, Alexandre de Rhodes đã ấn tượng với nghi lễ cày tịch điền vào ngày Mùng Ba thời Lê Trung Hưng, và có chép trong Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài. Nhà nước tổ chức lễ cày tịch điền với sự tham dự của vua là người cày mở luống lấy lệ, trong sự tham dự của đông đảo quần thần, binh sĩ và chúa Trịnh. Lễ cày tịch điền được thực hiện với ý nghĩa “dạy cho dân biết cách làm việc, không nghỉ và chăm sóc đất ruộng”. Đây là một tục lệ khuyến nông tốt đẹp đã được khởi phát từ thời vua Lê Đại Hành thời Tiền Lê (980-1009), ở đất nước mà nông nghiệp lúa nước là ngành kinh tế chủ đạo. Nhật ký Công ty Đông Ấn Anh (EIC) ghi lại sự kiện vua Lê Hy Tông cày tịch điền năm Đinh Sửu (1697) và nhận xét đây là “nghi lễ hình thức nhưng rất trọng thể ở Đàng Ngoài”.
Thời nay, khi nói đến “vi hành”, là hiểu việc xưa kia vua chúa cải trang để tìm hiểu đời sống của nhân dân. Sử liệu thi thoảng cũng có chép việc vi hành của vua thời Trần. Còn thời Hậu Lê, một việc xảy ra được ghi mang tính chất giai thoại trong Dã sử với bài “Quận công phong lậu”. Theo bài viết này, vua Lê Thánh Tông dù ở nơi cung cấm, nhưng biết tiếng ở Thăng Long có Quận Gió giỏi võ nghệ, là tay anh chị có tiếng nghĩa hiệp, dù làm nghề ăn trộm nhưng chỉ lấy của nhà giàu cho người nghèo khó chứ không làm của riêng. Nhân đêm 30 Tết, vua cải trang làm học trò nghèo đến nhà Quận Gió, giả làm người lỡ đường bị cướp hết tiền để nhờ giúp đỡ. Quận Gió ra tay cứu giúp, nhưng không lấy tiền của nhà buôn vì nhà đó tích cóp mà giàu, mà chọn nhà viên quan quản sở Kim Ngô vì tên này tham nhũng tiền nhà nước. Chính nhờ vụ đó mà Mùng Một Tết Nguyên đán, vua Lê mới xử vụ tham nhũng, vạch tội tham ô của viên quản sở Kim Ngô, tặng biển vàng cho Quận Gió với nghĩa “trộm cướp mà quân tử”. Tất nhiên, tính chính xác của sự kiện cần phải có dữ liệu xác tín minh định, nhưng ít ra, giai thoại này, ở mức độ ít nhiều, cũng thể hiện tấm lòng chăm dân của vị vua sáng thời Lê sơ (1428-1527).
TRẦN ĐÌNH BA
Bình luận