Hiến chế về Phụng Vụ Thánh đã dành Chương 6 đề cập về thánh nhạc với nhiều nét chỉ dẫn chính yếu. CGvDT đã có dịp trao đổi với Lm nhạc sư Kim Long về những khía cạnh liên quan…
CGvDT: Thưa cha, nhiều bài thánh ca bằng tiếng Việt đã được sáng tác trước Công đồng Vatican II, nhưng từ sau Công đồng với việc cử hành phụng vụ bằng tiếng bản xứ, phải chăngnền thánh nhạc Việt Nam có được cơ hội phát triển mạnh mẽ?
- Lm Kim Long: Đúng, Cộng đồng Vatican II, với việc cho phép sử dụng tiếng địa phương trong cử hành phụng vụ - đặc biệt là thánh lễ - đã tạo cơ hội cho thánh nhạc Việt Nam phát triển. Có thể phân biệt theo bản văn như sau:
a) Bản văn cố định, tức là nhưng bản văn phải giữ đúng như HĐGMVN chuẩn nhận và được Bộ Phụng Tự châu phê - phải kể tới bộ lễ (gồm Kinh Thương Xót, Kinh Vinh Danh, Kinh Tin Kính, Thánh và Lạy Chiên Thiên Chúa), các câu xướng đáp và các lời tung hô.... Nhiều sáng tác theo quy định này đã được hình thành và phổ biến như bộ lễ Sêraphim, bộ lễ Ca Lên Đi 2, 3...
b) Bản văn được thích nghi hoặc thay thế như Ca Nhập Lễ, Ca Tiến Lễ, Ca Hiệp Lễ... cũng được các nhac sĩ sáng tác rất nhiều.
c) Cung điệu dành cho chủ tế và tá viên - nhiều giáo phận đã đề xuất cung thử nghiệm nhưng Bộ Phụng Tự muốn có một cung chung cho từng ngôn ngữ... Ở Việt Nam, HĐGM chưa ấn định về việc này.
+ Hiến chế về Phụng Vụ Thánhđề cập “ở một vài miền, nhất là các xứ truyền giáo, có những dân tộc sẵn có một truyền thống âm nhạc riêng, nó đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tôn giáo và xã hội của họ. Tại những nơi này, phải quý trọng âm nhạc ấy đúng mức, và dành cho nó một địa vị thích hợp”.GHCG Việt Nam và các nhạc sĩ đã và đang vận dụng như thế nào?
- Đây là lời dạy rất chính đáng cần suy nghĩ. Vì nếu cứ dựa vào thang âm trưởng hay thứ của nhạc cổ điển phương Tây như đa phần những bài thánh ca Việt Nam hiện nay, chúng ta đi sau nhiều nước Âu châu cả thế kỷ... Nhưng rất tiếc mới chỉ có những cố gắng nhỏ lẻ! Chưathấy có những nghiên cứu và hướng dẫn chuyên sâu nên chưa có những thành quả đáng kể. Đây cũng là mối ưu tư triền miên của tôi, nhưng lực bất tòng tâm!
![]() |
Công đồng nhắn nhủ các nhạc sĩ sáng tác những bản có cung điệu thánh nhạc thực sự, để không những các ca đoàn lớn có thể hát được mà còn hợp với cả ca đoàn nhỏ, giúp cho toàn thể cộng đoàn tín hữu cũng có thể tham dự một cách linh động, cha nghĩ sao về điều này?
- Với việc phát triển của đủ mọi đàn organ điện tử, nhiều nơi do thiếu hiểu biết khi sử dụng đã khiến nhiều giáo đường “xập xình” không khác gì vũ trường. Tuy Giáo hội không trực tiếp cấm một loại nhạc nào, nhưng phải tôn trọngsự thánh thiêng của cử hành phụng vụ, sự trang nghiêm của giáo đường, sụ sốt sắng của tín hữu.Đây là điều luôn được nhắc nhở. Tưởng cũng cần nói thêm về loại nhạc “đạo vào đời” mànhiều người ưa thích để đem “đời vào đạo”. Loại nhạc này cần phải được học hỏi thêm!
Xin cha nói rõ hơn về loại nhạc “đời vào đạo”, bởi Công đồng nhắn nhủ lời thánh nhạc tốt hơn cả là rút ra từ Thánh Kinh và các nguồn mạch phụng vụ, hơn nữa hiện nay các bản thánh ca được sử dụng trong phụng vụ đều phải được Imprimatur?
- Nhạc “đạo vào đời” khó nói vắn gọn trong một câu trả lời, vì liên quan tới việc hình thành, ảnh hưởng và những sự lạm dụngkhiến “Ủy ban thi hành đúng Hiến chế Phụng Vụ” phải lên tiếng. Tôi chỉ xin vắn tắt việc đưa “đạo vào đời” qua những thể loại(nhất là các làn điệu) của âm nhạc dành cho giới trẻ rất hữu ích cho những sinh hoạt và huấn luyện của các hội đoàn..., nhưng đưa những nhạc điệu kích động và khiêu dâm (thường phát xuất từ nhạc Jazz) vào thánh đường là việc bất xứng. Vì thế, việc kiểm duyệt để xin “Imprimatur” của giáo quyền phải được tôn trọng!
Công đồng kỳ vọng về việc huấn luyện giáo sư có nhiệm vụ giảng dạy thánh nhạc trong các chủng viện, dòng tu, học viện... và nếu có thể thành lập Viện Cao Đẳng Thánh Nhạc. Ở Việt Nam hiện nay, công việc giảng dạy và viễn tượng này ra sao, thưa cha?
- Công đồng không trực tiếp nói tới việc giảng dạy thánh nhạc, nhưng ước mong có những người được học hỏi sâu rộng để góp phần kiến tạo nền thánh nhạc đáp ứng nhu cầu phụng vụ. Tôi rất mừng là hiện nay ở các đại chủng viện tại Việt Nam đều có giảng dạy về môn này. Khi còn đi dạy, tôi xin xếp thời khóa biểu 2 năm, mỗi tuần một tiết: một năm nói tổng quát những điều căn bản về âm nhạc, một năm chuyên về những huấn lệnh của Hội Thánh khi dùng âm nhạc trong phụng vụ. Việc lập một viện về thánh nhạc thuộc quyền của HĐGMVN. Trước đây, cố linh mục nhạc sư Tiến Dũng đã dày công lo liệu việc này nhưng chưa thành vì cơ sở khó thu xếp.
![]() |
Hiện nay giáo dân Việt Nam thuộc lòng nhiều bài thánh ca và hát cộng đồng trong thánh lễ, giờ chầu, giờ kinh nguyện…, đây có phải là nét son của nhiều nhạc sĩ cũng như của nền thánh nhạc Việt Nam?
- Công đồng nói nhiều tới tính tập thể của phụng vụ, kể cả việc ca hát, và ước mong mọi người cùng hợp tiếng tham dự tích cực và sống động các lễ nghi phụng vụ. Ca đoàn không thay thế giáo dân...
Với hơn 60 năm sáng tác và giảng dạy, cha kỳ vọng gì về thánh nhạc Việt Nam trong chặng đường phát triển?
- Sau thời gian dài cố gắng phục vụtheo “tài hèn sức yếu”, nay tôi cảm thấy như một“cầu thủ phải biết từ giã sân cỏ”,nhưngvẫn luôn mong ước nền thánh nhạc Việt Nam khởi sắc và tiến triển.
Xin cám ơn cha và kính chúc cha nhiều sức khỏe, cảm hứng…, để dệt thêm nhiều nhạc phẩm cho nền thánh nhạc Việt Nam!
PHẠM NGỌC thực hiện
Bình luận