Trong năm phụng vụ, Giáo hội dành tháng hoa (5) và tháng Mân Côi (10) để bày tỏ lòng sùng kính Mẹ Maria.
Ngoài ra, còn có thêm các lễ tôn kính Đức Mẹ gồm lễ Mẹ Thiên Chúa (1.1), Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu Trong Đền Thờ, thường gọi là lễ Nến (2.2), Đức Mẹ Lộ Đức (11.2), Truyền Tin (25.3), Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ (thứ Bảy tuần II sau Lễ Hiện Xuống), Đức Mẹ Fatima (13.5), Đức Mẹ Thăm Viếng Bà Elizabeth (31.5), Đức Mẹ Núi Camêlô (16.7), Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (15.8), Sinh Nhật Đức Mẹ (8.9), Đức Mẹ Sầu Bi (15.9), Đức Mẹ Mân Côi (7.10), Đức Mẹ Dâng Mình (21.11), Đức Mẹ Vô Nhiễm (8.2), Đức Mẹ Guadalupe (12.12).
![]() |
Lòng sùng kính Mẹ là truyền thống lâu đời trong Giáo hội.
Từ thế kỷ thứ IV, đã phát triển một cách thích đáng dẫn tới việc nở rộ trong các thế kỷ sau. Việc các Kitô hữu trực tiếp khẩn cầu Mẹ Maria trong lời nguyện cá nhân được thánh Gregôriô Nazianzenô xác nhận. Cũng chính trong thời này có các thông tin đầu tiên liên quan tới các lần Đức Mẹ hiện ra. Sử gia Sozomeno cho chúng ta biết rằng trong một ngôi nhà thờ nhỏ tại Costantinopoli, quyền năng Chúa đã phân phát các ơn thánh cho những người đau yếu và những ai cần sự trợ giúp. Và người ta xác tín rằng đó là do chính Mẹ Chúa làm. Còn thánh Grêgôriô Nissênô nói tới biến cố Đức Trinh Nữ hiện ra với thánh Grêgôriô - người chữa bệnh. Ngay từ thời đó, các vụ hiện ra của Đức Mẹ đã không bị coi như là các hiện tượng không thể xảy ra hay là bất thường.
Tuy nhiên, trong các thế kỷ cuối thời Trung Cổ, lòng sùng kính Mẹ Maria đã bị diễn tả sai lạc như gán cho Đức Trinh Nữ tước hiệu nữ thần hoặc cho thấy Mẹ như là nhân vật thứ bốn của Ba Ngôi Thiên Chúa hay thành lập các nhóm gọi là “Hiệp hội các nô lệ của Đức Maria”, và lòng tôn sùng Đức Mẹ Sầu Bi được giải thích hàm hồ, chẳng hạn như thành lập một phong trào các linh mục nạn nhân nguyện sống sự hấp hối của Mẹ Maria dưới chân thập giá…
Vào tiền bán thế kỷ XIX, dưới sự thúc đẩy của các hiện tượng thánh linh đặc sủng và điềm thiêng dấu lạ, người ta chứng kiến việc hồi sinh của lòng tôn sùng Mẹ Maria trên bình diện toàn cầu. Năm 1830, Đức Mẹ hiện ra với chị Caterina Labouré, dẫn đưa tới chỗ khẳng định lòng sùng kính huy hiệu Đức Mẹ làm phép lạ. Năm 1846, Đức Mẹ hiện ra tại La Salette. Năm 1854, Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Năm 1858, Đức Mẹ hiện ra với chị Bernadette Soubiroux tại Lộ Đức.... Trong thế kỷ XX, chúng ta thấy nảy sinh ra một phong trào thánh mẫu đích thực. Các Đại hội thánh mẫu bắt đầu từ thế kỷ trước gia tăng trên bình diện quốc gia và quốc tế.Dưới triều đại của ĐGH Piô XII, lòng sùng kính Đức Mẹ được thúc đẩy mạnh mẽ. Với Thông điệp “Fulgens corona” công bố ngày 8.9. 1953, Đức Piô XII tuyên bố Năm Thánh Mẫu 1954 để kỷ niệm 100 năm ngày định nghĩa tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Với Thông điệp “Ad Coeli Reginam” công bố ngày 11.10.1954, Đức Piô XII thành lập lễ Đức Maria Nữ Vương…
![]() |
Giáo hội Việt Nam cũng đã thể hiện lòng sùng kính Mẹ Maria cách đặc biệt với việc cầu nguyện trước đài Đức Mẹ hằng ngày hoặc thường xuyên đọc kinh Mân Côi, kinh Truyền Tin trong các cộng đoàn, gia đình, giáo khu. Các trung tâm hoặc điểm hành hương kính Đức Mẹ cũng ngày càng mở rộng ở nhiều nơi như Đức Mẹ La Vang (TGP Huế), Đức Mẹ Trà Kiệu (GP Đà Nẵng), Đức Mẹ Bãi Dâu (GP Bà Rịa), Đức Mẹ Núi Cúi (GP Xuân Lộc), Đức Mẹ La Mã, Đức Mẹ Fatima (GP Vĩnh Long), Đức Mẹ Giang Sơn (GP Ban Mê Thuột), Đức Mẹ Măng Đen (GP Kontum), Đức Mẹ Suối An Bình (GP Đà Lạt). Nhiều giáo xứ còn xây dựng thêm hang đá Lộ Đức, đài Đức Mẹ…
Trong khi tôn sùng Mẹ Maria, Giáo hội cũng luôn nhắc nhớ giáo hữu về các biểu hiện thái quá, mê tín dị đoan hay sai lạc. Chính vì vậy, trong Tông Huấn “Marialis Cultus” (về việc tôn kính Ðức Maria trong Giáo hội) công bố ngày 22.3.1974, ĐTC Phaolô VI gợi lại bốn chú ý để khám phá ra ý nghĩa, vẻ xinh đẹp và tính cách vững chắc của lòng sùng kính đối với Ðức Maria: “Chú ý Kinh Thánh, nền tảng cho việc sùng kính nghiêm chỉnh; chú ý phụng vụ, nghĩa là lời cầu nguyện chính thức của Giáo hội; chú ý đại kết, nghĩa là sự lo lắng nói lên giáo lý truyền thống và bất di dịch, bằng việc quan tâm đến sự nhạy cảm của các giáo hội Kitô khác và sau cùng, chú ý về nhân loại học, sự chú ý này làm cho chúng ta đặt đúng chỗ hình ảnh của Ðức Maria trong tình hình văn hóa ngày nay”.
HOÀNG ANH
Bình luận