Hôm Thứ Ba 21.3.2023, từ phương xa, một bạn trẻ (đồng đạo Cao Đài) gởi điện thư hỏi tôi: “Năm 1966 là Bính Ngọ. Tại sao có sách ghi là Bính Ngũ?”.
Câu hỏi này làm tôi nhớ hồi hăm hai tuổi, mới tập tễnh vô đạo Cao Đài, khi đọc các bản in thánh giáo thấy các năm Ngọ như 1930, 1942, 1954, 1966 lại viết là Canh Ngũ, Nhâm Ngũ, Giáp Ngũ, Bính Ngũ thì không khỏi ngạc nhiên. Thoạt đầu cứ ngỡ là sách in sai vì sót lỗi mo-rát (morasse) do thợ xếp chữ; nhưng rồi thấy chữ “Ngũ” được lặp lại nhiều lần trong các sách nên phải giở từ điển tìm hiểu. Thì thấy Đại Nam Quấc Âm Tự Vị (Tom II) của Huình Tịnh Paulus Của (Saigon 1896, tr. 107) giải thích: 午 Ngũ. c. (Ngọ). [“c.” là “chữ nho”.] Soạn giả còn cho biết: “Tiết đoan ngũ: Tiết mồng năm tháng năm”.
![]() |
Vậy, “tiết đoan ngũ” tức là “tết đoan ngọ” (đoan ngọ tiết 端午節). Bấy giờ tôi mới sực nhớ thời làm học trò trường trung học công lập Hồ Ngọc Cẩn ở Bà Chiểu, một ông thầy dạy hai môn vật lý, hóa học của tôi có tên là Triệu Canh Ngũ; và tôi đoán già đoán non rằng có lẽ thầy mình sanh năm 1930.
Trở lại với câu hỏi của đạo hữu trẻ tuổi, tôi trả lời bạn như sau: “Chữ Ngọ còn đọc là Ngũ. Các năm như Mậu Ngọ, Canh Ngọ, Nhâm Ngọ, v.v... còn gọi là Mậu Ngũ, Canh Ngũ, Nhâm Ngũ, v.v... Huệ Khải chưa biết vì sao gọi Ngọ là Ngũ. Không chừng hồi xưa có ông vua, bà chúa nào tên là Ngọ nên kiêng húy phải đọc trại ra là Ngũ chăng?”. Anh bạn hồi âm liền: “Dạ, cảm ơn hiền huynh. Mấy ông bà xưa sao rắc rối quá. Cười”.
Tôi đồng ý với bạn mình. Rắc rối quá! Húy 諱 là chữ cấm kỵ, phải tránh dùng theo lịnh triều đình; vi phạm thì mắc tội, bị trừng phạt. Tiếng Anh dịch “húy” là “taboo word”; Tây dịch là “caractère interdit”. Đó là họ dịch nghĩa chớ không có từ tương đương. Chúng ta biết “húy” là “bệnh riêng” của mấy ông vua Tàu kể từ đời Chu hay Châu (khoảng 1122-256 trước Công Nguyên) mà vua chúa nước Nam bị “lây nhiễm” nặng kể từ đời Trần (1226-1400), như chép trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (thế kỷ 17), và Giáo Sư Ngô Đức Thọ nhắc lại (Nghiên Cứu Chữ Húy Việt Nam Qua Các Triều Đại. Hà Nội: Nxb Văn Hóa, 1997, tr. 35).
Muốn biết do kiêng húy ông hoàng bà chúa nào mà đọc trại Ngọ thành Ngũ, tôi thử giở quyển sách của giáo sư Ngô Đức Thọ (1936-2019), cháu nội chí sĩ Ngô Đức Kế (1878- 1929). Tìm chưa ra kết quả (có lẽ tôi đọc không kỹ) thì bắt gặp chuyện này:
Theo giáo sư Thọ (sách đã dẫn, tr. 125), Đại Nam Thực Lục Chính Biên in năm 1873 cho biết liên quan tới vua Gia Long (tại vị 1802-1804) có một chữ húy là “Cảo”. Thế mà vào đời vua Thiệu Trị (trị vì 1841-1847), trong tháng 9-1842, quan Tổng Đốc tỉnh Bình Phú là Đặng Văn Thiêm dâng sớ tâu về việc địa phương được mưa, trong sớ lại trót phạm húy với chữ “Cảo” 槁, cũng dùng như “Cảo” 槀. Thế là quan tổng đốc bị vua quở, mà chính vua khi quở trách cũng tránh nói chữ “Cảo”, nên phải chiết tự ra là “trên Cao 高 dưới Mộc 木”. Vua Thiệu Trị quở như vầy:
“Chữ này với chữ thượng Cao 高 hạ Mộc 木 cùng là một chữ, từ trước đến nay tôi con trong ngoài ai cũng kính cẩn kiêng tránh. Đặng Văn Thiêm làm việc đã lâu ngày, sao lại đến thế?” (sách đã dẫn, tr. 145) Bởi vì phạm húy nên “Thiêm bị giáng bốn cấp, vẫn cho lưu chức”.
Đọc như thế, tôi hiểu rằng ông Thiêm vẫn làm tổng đốc tỉnh Bình Phú, nhưng có lẽ lương bổng bị hạ thấp bốn bậc chăng?
Tôi chép lại chuyện ông Thiêm để thấy người xưa quá khổ sở, dễ rủi ro với các chữ kiêng húy. Ôi, húy ơi là húy!
Tái bút:
Trong lúc chưa tìm ra chứng cớ về việc “Ngọ” trở thành “Ngũ” có phải là kiêng húy của ai không, thì tôi tìm thấy ý kiến của học giả An Chi Võ Thiện Hoa (1935-2022).
Trong quyển Từ Thập Nhị Chi Đến 12 Con Giáp (Nxb Tổng Hợp Tp.HCM, 2018, tr. 80), An Chi viết: “Ngọ và ngũ đều là âm Hán Việt của chữ 午. Ngọ là âm xưa từ đời Hán hoặc trước nữa còn ngũ là âm từ đời Đường và thuộc hệ thống ngữ âm Hán Việt hiện đại. Nhưng chính âm xưa lại thông dụng còn âm nay thì lại không mấy ai biết đến”.
Huệ Khải
Bình luận