Một đoạn đường dài thuộc ấp Chí Thành, xã Tân Hội, tỉnh An Giang (trước đây là xã Tân Thành, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang) đậm mùi trúc, quyện hương đất, tạo nên một cảm giác quen thuộc. Đây là một xóm làm nghề đan cần xé, đã hiện diện ngót nghét gần năm mươi năm, trở thành kế sinh nhai của nhiều hộ gia đình.
CÁI NGHỀ ĐÃ NỬA THẾ KỶ
Người dân kể ngày trước, trúc mọc um tùm như rừng hai bên bờ sông. Nhận thấy vùng đất này có nguồn nguyên vật liệu dồi dào, một số hộ chẻ trúc rồi đan thành các vật dụng như rổ rá, sàng nia, thúng mẹt…, và có cả cần xé. Qua thời gian, nhiều nhà cùng làm và chuyển qua “chuyên canh” một loại là cần xé, nghề lan rộng ra cả xóm. Vào những ngày nắng ráo, con đường làng như được trải đầy màu xanh của từng bó trúc mới chặt mang về, xen lẫn với màu vàng của những bó nan. Nhờ đầu ra có phần ổn định, bà con có việc làm quanh năm. Chính vì thế mà nơi đây vẫn giữ nghề truyền thống này cho đến bây giờ.
Những chiếc cần xé Tân Hội được đem đi khắp nơi, dùng để đựng nông sản, thủy hải sản, phân phối cho nhiều vùng trên khắp cả nước. Thân quen với thanh âm của những nan tre từ hơn vài chục năm nay, bà Đào Thị Cổi, ngoài năm mươi tuổi, vừa “đương” - theo cách gọi của người dân nơi đây - vừa kể rằng thuở còn bé đã nhìn thấy hình ảnh cha ngồi bên những bó tre nan trúc, đan rất nhiều vật dụng… Ngày đó, bà cũng tập tành làm để bắt đầu giúp đỡ gia đình, trang trải cuộc sống. Đến nay, lại tiếp nối cha gắn bó với cái nghề sinh nhai. Bà Cổi cho biết: “Một ngày nếu hai người làm, một người chẻ trúc, gầy mê, còn người kia đương thì có thể làm được hơn 20 cái. Gia đình nào đông người thì có thể nhiều hơn, đủ trang trải phần nào chi phí sinh hoạt”. Có điểm thuận lợi là nghề này trẻ em chừng 12 tuổi đã có thể làm để phụ giúp cha mẹ, bên cạnh các giờ học ở trường. Ngoài ra, người làm còn chủ động được thời gian để đi làm thêm việc khác, như trường hợp bà Cà Bay cũng ở trong xóm, dù làm công việc này đã gần 40 năm, nhưng vì con đông, nhà không có đất làm ruộng, nên ngoài đương cần xé, đến mùa, còn đi cắt lúa mướn, và hằng ngày phải lội thêm dưới kinh bắt con cá con cua, đỡ đần thêm. Dầu vậy, bà vẫn không dừng công việc đã gắn bó với mình cả hơn nửa đời người này.
NHỮNG ĐÔI BÀN TAY CHAI SẦN
Để làm ra một chiếc cần xé, những người thợ sẽ phải trải qua nhiều khâu khác nhau. Mỗi công đoạn thường sẽ do một thành viên trong gia đình phụ trách, gồm chẻ trúc, vót nan, mê đáy và đương hoàn thiện. Nan công dùng làm đế, nan trắng chèn ở đáy, nan mình để đương xung quanh phần thân, nan vành làm miệng, và một số mảnh trúc được vót dày hơn dùng để làm ghim giữ dáng cho chiếc cần xé. Theo kinh nghiệm của người làm nghề, trúc mùa mưa và trúc mùa nắng khác nhau rất rõ. Bởi vì trúc mùa mưa nan ướt nên bén hơn hẳn, dễ làm xước tay; những khi trời nắng dài, nan khô, người chẻ đỡ bị thương hơn. Chính vì lẽ đó mà đôi bàn tay của những người thợ nơi đây, ai cũng có những vết sẹo và chai cứng hằn sâu.
Công đoạn gầy mê đáy cần xé, nghĩa là đan đáy, là một trong những khâu không kém phần quan trọng, bởi đây là phần chịu tải toàn bộ của chiếc cần xé. Người thợ chọn những chiếc nan công để làm. Cứ hai nan dọc lại kẹp một nan ngang, lồng chéo nhau, rồi đặt nan trắng ngay bên. Phần đáy không đan khít mà có khoảng hở để thoáng khí, không bị ứ nước ở đáy khi đựng.
Tôi ngồi nhìn ông Nguyễn Văn Tám, người trong ấp, cũng đã làm nghề này từ khi còn nhỏ, đương phần thân cần xé, là bước tiếp theo sau khi mê đáy đã hoàn chỉnh. Từ mép đáy, ông dựng các nan xung quanh lên, rồi ép vào khuôn có sẵn. Chiếc khuôn thực ra chỉ đơn giản là một chiếc đôn cũ, đóng vai trò định hình chiếc cần xé. Nan mình có thể dài vài mét, theo chiều dài của thân trúc được đốn. Người thợ cứ đương vòng quanh từ đáy lên, đến đoạn nào hết trúc thì nối tiếp vào chỗ vừa hết. Vừa đương vừa siết cho khít, đôi tay người thợ cứ thoăn thoát, ánh mắt không khi nào rời khỏi món đồ đang dần được hoàn thành. Cứ vậy mà ra dáng chiếc cần xé quen thuộc. Ông Tám giới thiệu cách đặt nan: “Khi đương, người ta sẽ hướng mặt vỏ trúc của nan ra ngoài, để thấy có độ căng mướt và nhìn đẹp hơn”. Cần xé làm xong được đem ra ngoài phơi nắng, trúc sau khi phơi sẽ không còn xanh như lúc mới róc, mà sẽ dần chuyển sang màu vàng nhạt. Sau công đoạn này sẽ đến khâu lên vành và gắn quai. Khâu này rất quan trọng, nên cần những người thợ thạo nghề trong gia đình. Cuối cùng, họ cố định phần đáy bằng những chiếc ghim để cần xé cứng cáp, cũng như không bị biến dạng khi đựng hàng hóa nặng.
“Nghề này ngồi trong mát nên cũng đỡ nắng, đỡ nóng. Hơn nữa nó đã thành cái nghiệp mình đeo rồi. Có duyên thì mình mới làm nghề, nên mình sẽ làm đến khi nào không còn sức làm mới thôi”, ngừng tay, ông Tám cảm thán.
Cũng giống như bao nghề truyền thống khác, nghề đương cần xé ở Tân Hội mang theo cả tâm huyết, kinh nghiệm và sự gắn bó bền lâu. Ở đó, nét văn hóa của vùng đất Phương Nam đang được giữ gìn vẹn nguyên, dẫu có nhiều đổi thay của thời hiện đại.
Vũ Hoàng
Bình luận