Sau khi di cư từ miền Bắc vào năm 1954 và bén duyên với vùng đất mới, những người đến đất Lạc An, (huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương cũ) ngay từ thời gian đầu đã chọn lấy nghề đan lát. Từ đó trở thành một phương kế sinh nhai nuôi sống bao nhiêu lớp con cháu. Những đôi tay cần cù đã biến từng tàu lá thô thành những chiếc quạt mộc mạc nhưng chứa đựng biết bao công sức và ký ức.
Lạc An (sau sáp nhập nay thuộc xã Thường Tân, TPHCM) xưa kia là vùng đất hoang vu, cây cối rậm rạp. Cuộc di cư năm 1954 đã mang theo một bộ phận giáo dân giáo phận Thái Bình đến nơi đây sinh sống. Họ bắt đầu dựng nhà, khai khẩn đất đai, biến vùng đất ven sông thành ruộng vườn. Bên cạnh nghề nông từ xưa cha ông đã gắn bó, những gia đình này còn tận dụng nguồn tre, nứa, lá ở khu vực gần đó để đan thành thúng, rổ, quạt.
Theo lời chỉ dẫn của người dân, chúng tôi tìm đến với giáo xứ Mỹ Vân, giáo phận Phú Cường. Nơi đây, cùng với giáo xứ Thượng Phúc, trước kia nổi tiếng bởi làng nghề đan quạt. Hình ảnh bắt gặp được trên con đường dẫn vào xóm nhỏ là những bó lá ngà ngà vàng hay từng xâu quạt được dựa vào vách tường rào để hong nắng cho khô. Mùi cỏ lá tỏa một mùi thơm rất quen, nhưng cũng rất riêng. Người dân kể lại, trước đây ở giáo xứ Mỹ Vân hầu như nhà nào cũng đan quạt, nhất là vào những tháng mùa nắng. Sân nhà thờ lúc ấy cũng trở thành nơi phơi lá. Họ coi đó như nguồn thu nhập để nuôi gia đình. Tiếng vót nan, âm thanh loạt xoạt của những tàu lá quẹt vào nhau nhẹ vang lên sớm hôm, từ sân trước đến hiên sau.
Mỗi chiếc quạt đan mộc mạc xua đi cái nóng bức, đã giúp tăng thêm thu nhập người dân, giúp nhiều con em vùng quê có cơ hội đến trường để theo đuổi con chữ. Bà Đặng Thị Huệ, người đã làm công việc này từ khi mới 8 tuổi, nay đã gần lục tuần, ánh mắt như lấp lánh ký ức kể rằng: “Ngày ấy, cả nhà quây quần bên nhau, con cái đi học về là cùng ngồi đan quạt, tranh thủ kiếm thêm. Người chăm chỉ, từ sáng đến tối có thể đan được gần trăm chiếc quạt”.
Những chiếc quạt tay đan từ lá buông, mà người dân quen gọi là lá “quạt”. Đây là lá của một loại cây thoạt nhìn có phần giống cây cọ hoặc cây thốt nốt. Cuống hình máng và phần lá xòe rộng như bàn tay dang ra đón gió. Mỗi tàu lá lớn có thể đan được ba đến bốn chiếc quạt. Xưa kia, khi những cánh rừng quanh vùng Lạc An còn bạt ngàn, cây buông mọc lên khắp nơi. Người dân chỉ việc chặt lá về, đan quạt, làm chổi, rồi từ vài ba người, nghề đan lan tỏa cả vùng, trở thành sinh kế thân thuộc. Ngày nay, rừng buông dần thay bằng rẫy trái cây, lá quý hiếm hơn, buộc người thợ phải nhờ các mối lái mang về từ những cánh rừng xa xôi tận Bình Thuận.
Lá buông mới chặt về còn khép thành búp xanh dài chừng một mét. Người thợ tỉ mỉ tách từng tàu lá non, phơi vài nắng cho lá chuyển màu vàng, nhưng không được để thành khô giòn, mà phải giữ được một chút ẩm, đảm bảo độ dẻo dai để đan quạt. Những mảnh lá sâu mọt hay kém đẹp sẽ được loại bỏ, đảm bảo chiếc quạt thành phẩm vừa bền vừa bắt mắt.
Công đoạn đan quạt là cả một nghệ thuật đòi hỏi sự khéo léo. Thợ lồng từ hai đến ba chiếc nan ngang mặt quạt, gọi là nan công, để cố định và làm chắc phần dưới của quạt, rồi phần lá xòe được đan xen khéo léo với nhau, từng nếp một, tạo thành hình dáng mặt quạt. Bí quyết nằm ở việc đan sao cho các nếp lá khít chặt, không kẽ hở, để khi quạt, luồng gió mát lành thổi ra mạnh mẽ. Phần lá thừa được quấn gọn quanh cuống bằng dây nhựa, tạo tay cầm chắc chắn. Tùy sở thích khách hàng, tay cầm có thể để thẳng hay uốn cong thành vòng tròn, mỗi chi tiết đều toát lên sự tinh tế của đôi tay lành nghề.
Sau khi sản phẩm được hoàn thiện, quạt vẫn giữ chút ẩm mát khi chạm vào. Nên người dân xâu từng chục chiếc quạt đem phơi dưới nắng nhẹ. Qua cái nắng ngắn mà quạt khô dần và trở nên nhẹ hơn, nhờ đó dễ dàng sử dụng, bảo quản, giữ được màu sắc đặc trưng. Từ đây, từng chiếc quạt bắt đầu hành trình mới, theo con đò lướt trên sông Đồng Nai đến các chợ sỉ lẻ ở Đồng Nai, TPHCM, mang theo hơi thở của làng quê và bàn tay cần mẫn của người thợ.
Mỗi chiếc quạt lá buông là một câu chuyện, mang dấu ấn của đôi tay cần mẫn và ký ức về một nghề truyền thống thấm đẫm hồn quê. Giờ đây, tại xứ Mỹ Vân chỉ có khoảng mười hộ còn bền bỉ đan quạt thủ công, chủ yếu theo những đơn đặt hàng thưa thớt. Sự tiện lợi của quạt máy và đồ nhựa giá rẻ đã khiến nhu cầu cho quạt lá ngày một giảm. Những người trẻ trong làng, thay vì nối nghiệp cha ông, chọn làm công nhân tại các khu công nghiệp, dần xa rời nghề đan quạt, khiến làng nghề đứng trước nguy cơ mai một. Bà Oanh, người đã gắn bó hơn 60 năm với nghề, kể: “Ngày trước, mọi nhà cùng đan, tiếng lá xào xạc hòa lẫn tiếng cười nói rôm rả, xóm làng như gần nhau hơn, ấm áp lạ thường”.
Thi thoảng, những nhóm học sinh ghé thăm, háo hức tìm hiểu và tập đan những chiếc quạt nhỏ xinh. Nhìn những đôi tay còn vụng về nhưng ánh mắt lấp lánh tò mò, những người thợ mái đầu đã điểm bạc như bà Oanh lại thấy như trở về ngày đầu chập chững học vót lá, đan quạt.
Giữa sự tĩnh lặng của làng quê, âm thanh của lá buông xào xạc vẫn như còn đó trong tâm trí người con Mỹ Vân. Những buổi trưa năm nào, tiếng võng kẽo kẹt hòa cùng nhịp quạt đong đưa, cũng đã trở thành ký ức không thể phai mờ của bao người Việt Nam. Dẫu hôm nay nhiều làng nghề chỉ còn vài hộ kiên trì tiếp tục, nhưng mỗi chiếc quạt lá vẫn chất chứa hồn quê, để khi quạt lên, ký ức của những mùa hè yên ả ấy mãi còn lưu giữ trong lòng những người con, đã lớn lên từ lời ru, từ gió mát tay mẹ, tay bà.
VŨ HOÀNG
Bình luận