3.3 Nhà thờ hiện đại miền Nam Việt Nam
Kiến trúc hiện đại miền Nam Việt Nam hình thành trong bối cảnh đất nước vừa ra khỏi chế độ thực dân nửa phong kiến, miền Nam trở thành nơi hội tụ của nhiều kiến trúc sư tài năng, tốt nghiệp các trường danh tiếng như Mỹ thuật Đông Dương, Cao đẳng Kiến trúc Đà Lạt, Cao đẳng Kiến trúc Sài Gòn, Cao đẳng Quốc gia Mỹ thuật Paris, Đại học Kiến trúc Quốc gia Lyon... Để nâng cao tính hiệu quả của công trình và tinh thần quốc gia, họ đã tiếp thu tinh thần kiến trúc hiện đại theo ba xu hướng chính: quốc tế, nhiệt đới và dân tộc. Thành quả của sự tiếp thu ấy là một diện mạo hoàn toàn mới của kiến trúc miền Nam Việt Nam: hiện đại, khỏe khoắn và thực tiễn.

Song song đó, sau năm 1954, việc xây dựng nhà thờ mới diễn ra nhiều nơi, nhằm đáp ứng nhu cầu của cộng đồng Công giáo di cư tại Sài Gòn, Hố Nai, Gia Kiệm, Cái Sắn... Với tư duy cấp tiến và tinh thần quốc gia, không ít linh mục đã phê duyệt đồ án xây dựng nhà thờ theo phong cách này, để lại những công trình đáng trân quý của một giai đoạn lịch sử.
Thật ra, trong nửa đầu thế kỷ XX, kiến trúc hiện đại đã bắt đầu manh nha ở Việt Nam, tạo ra những công trình mang xu hướng quốc tế nhưng vẫn còn chịu nhiều ảnh hưởng của kiến trúc cổ điển Pháp và kiến trúc Đông Dương. Tuy đã có sự lược giản về đường nét, tập trung vào hình khối và công năng, các công trình này không hoàn toàn duy lý như ở Âu - Mỹ, mà vẫn sử dụng các yếu tố tạo hình, các đối tượng trang trí thiên về thẩm mỹ, gắn kết với một ý nghĩa biểu trưng nhất định. Dầu vậy, cũng còn giữ bố cục đối xứng và kết cấu gồm ba khối tách biệt là đế - thân - đỉnh. Trong đó, đế thường được làm bằng đá hoặc ốp đá; thân được quét vôi, lăn sơn hoặc phủ đá mài, đá rửa; còn đỉnh vẫn là mái lợp ngói. Với một số trường hợp, ảnh hưởng của kiến trúc thời Pháp thuộc còn mạnh mẽ đến mức có thể xem là phong cách Đông Dương muộn.
Một ví dụ điển hình là nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp của dòng Chúa Cứu Thế ở Huế. Khởi công năm 1959, khánh thành năm 1962, ngôi nhà thờ đồ sộ này kết hợp xu hướng quốc tế với kiến trúc thuộc địa. Nhìn vào tổng thể công trình, có thể nhận ra khối đế ốp đá chẻ, khối thân lăn sơn và khối đỉnh là mái dốc lợp ngói. Phía bên trong nhà thờ, vòm bê tông và những tấm kính lớn sáng màu đã mang đến một cảm giác hiện đại và thanh thoát hơn, dù vẫn sử dụng vòng cung nhọn (pointed arch) như các nhà thờ kiểu Gothic. Phía bên ngoài, hệ thống mái trang trí đồ sộ vẫn mang đến cảm quan nặng nề và bệ vệ nên chưa thật sự hiện đại về mặt đường nét.
Được xây dựng sớm hơn nhưng hiện đại hơn và thành công hơn trong việc tạo nên một vẻ ngoài thanh thoát là nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp của dòng Chúa Cứu Thế ở Sài Gòn, mà giáo dân vẫn quen gọi là nhà thờ Kỳ Đồng. Khởi công năm 1949 và hoàn thành năm 1952, đây có thể xem là biểu tượng thành công của việc hiện đại hóa kiến trúc cổ điển. Công trình này có đế và thân đã không còn tách biệt, các đường cong cổ điển hầu như bị thay thế bằng đường nét tam giác đầy tinh tế, tạo ra một vẻ ngoài trang nhã và hiện đại. Mặc dù mái lợp ngói với ô cửa kính nhô ra kiểu cổ điển vẫn hiện diện, nhưng sự đổi mới về đường nét tạo hình đã mang đến cảm quan nhẹ nhàng và gần gũi hơn.
Cũng có không ít nhà thờ thành công về mặt đường nét và hình khối khi tham gia vào quá trình giao thoa giữa cổ điển với hiện đại. Đó là tuy vẫn có đủ ba khối đế - thân - đỉnh nhưng không quá đồ sộ mà gọn gàng và lược giản trong tạo hình và trang trí. Một số cái tên tiêu biểu có thể kể đến là nhà thờ Đức Bà Lâm Viên ở Lâm Đồng (khởi công năm 1935), nhà thờ Vũng Tàu (khởi công năm 1940), nhà thờ Thị Nghè ở Sài Gòn (xây dựng lần đầu năm 1953)...
Bước sang thập niên 1960, dưới ảnh hưởng của tinh thần quốc gia và tiến trình loại bỏ các dấu tích của thời kỳ thuộc địa, ảnh hưởng của kiến trúc cổ điển hầu như không còn chốn dung thân. Kiến trúc hiện đại đã thế chỗ để kết hợp với tính nhiệt đới và tính bản địa, mang đến một diện mạo mới cho các công trình xây dựng ở miền nam Việt Nam. Tuy là ba đặc tính khác nhau nhưng hiện đại, nhiệt đới và bản địa không tồn tại riêng lẻ theo các xu hướng tách biệt, mà luôn đan xen, bổ trợ với mức độ thể hiện khác nhau trong từng công trình, nhất là trong thập niên 1960 này.
Tính nhiệt đới được dung nạp vào kiến trúc hiện đại thông qua quá trình thích nghi với khí hậu đặc thù của Việt Nam. Đối tượng tiêu biểu đại diện cho tính nhiệt đới là lam che nắng (brise soleil) và gạch thông gió. Đây là hai thành phần dễ nhận thấy của kiến trúc hiện đại miền Nam Việt Nam, được bổ sung bên ngoài tường chính của công trình, vừa hạn chế ánh nắng trực tiếp, vừa đảm bảo đối lưu không khí, mà lại còn tạo nên một bề mặt có giá trị thẩm mỹ cao. Lam che nắng và gạch thông gió thường đi cùng với một giải pháp mang đậm tính nhiệt đới là kết cấu hai lớp tường (double skin). Ngoài lớp tường chính bao quanh không gian sử dụng, một lớp tường bên ngoài được bố trí thêm để che nắng, cách âm và giảm bức xạ nhiệt. Giữa hai lớp tường là hành lang dài chạy dọc theo công trình, một hình thái mang cả tính nhiệt đới và bản địa.
Một chi tiết khác cũng khá phổ biến trong kiến trúc hiện đại miền Nam Việt Nam là ô văng che nắng che mưa. Không chỉ giúp hạn chế ánh sáng trực tiếp, hình thành bóng râm trên bề mặt công trình; hạn chế hạt mưa tạt vào trong…, ô văng còn là điểm nhất để kiến trúc sư thể hiện sự sáng tạo, mang tới hiệu ứng thẩm mỹ sinh động và độc đáo.
Để thể hiện tinh thần quốc gia và tạo sự hòa hợp với môi trường văn hóa Việt Nam, nhiều công trình đã khéo léo tiếp thu các yếu tố của kiến trúc địa phương, tạo nên tính bản địa. Sự tiếp thu này không phải là vay mượn cách gượng ép, mà là một lựa chọn hợp lý và tự nhiên. Vì muốn xây dựng một công trình phù hợp với điều kiện tự nhiên, sử dụng năng lượng hiệu quả thì không có cách nào hữu hiệu hơn học hỏi nền kiến trúc bản địa đã thích nghi với khí hậu tại chỗ qua hàng ngàn năm.
Tính bản địa được thể hiện rõ ràng ở các hành lang chạy dọc theo công trình và mái hiên rộng đóng vai trò là những không gian chuyển tiếp, trung hòa ảnh hưởng của nắng, gió, bức xạ nhiệt. Ngoài ra, các họa tiết trang trí truyền thống cũng được lồng ghép tinh tế vào thiết kế gạch thông gió, lam che nắng, ô văng… dưới dạng hình học kỷ hà, vừa làm tăng giá trị thẩm mỹ, vừa gìn giữ đặc trưng văn hóa Việt Nam.
KỲ PHONG
Bình luận