* Phường Bình Dương mới hình thành sau khi sáp nhập các phường Hòa Phú, Phú Mỹ, Phú Tân, Phú Chánh.
Địa danh Bình Dương xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng năm 1692, sau khi Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh thiết lập hệ thống quản lý hành chánh cho vùng đất phía Nam này. Lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long - dựng dinh Trấn Biên; xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình - dựng dinh Phiên Trấn. Dinh Phiên Trấn được chia làm hai tổng là Tân Bình và Bình Dương. Khi mới thành lập, người hai huyện được phép sinh sống làm ăn xen kẽ nhau. Như người huyện Phước Long có thể sang lập nghiệp trong huyện Tân Bình, vì thế trong huyện Tân Bình có tổng Phước Lộc. Và huyện Tân Bình sang lập nghiệp bên huyện Phước Long, vì thế trong huyện Phước Long có tổng Bình An. Sau này Bình Dương thành huyện, có sáu tổng là Dương Hòa Hạ, Dương Hòa Thượng, Dương Hòa Trung, Bình Trị Thượng, Bình Trị Hạ, Bình Trị Trung. Bình Dương thời ấy là cả một vùng đất rộng lớn, từ bắc Sài Gòn chạy dài về một phần đất Long An, Gia Định cho đến giáp với Tây Ninh. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí, trong phần nói về tỉnh Gia Định xưa cũng có ghi: “Bản triều lúc đầu đặt làm tổng Bình Dương, năm Gia Long thứ 7 mới thăng huyện”. Như vậy có thể nói, địa danh Bình Dương đã có hàng trăm năm trước.

Nguyễn Văn Hầu trong cuốn Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh viết: “…Về phần cư dân người Việt vùng Gia Định thuở ấy đa số là người tứ xứ, nhưng nhiều nhất là dân Quảng Bình (...) theo nối vết chân kinh lược của thống suất Nguyễn Hữu Cảnh, thì nhận thấy nhiều vùng đất miền khai sáng đều được ghép chữ bình hoặc chữ tân vào đằng trước hoặc đằng sau địa danh mới để đặt tên như Bình Long và chữ bình vốn xuất xứ từ huyện Tân Bình ở tỉnh Quảng Bình. Ta cũng biết Bình Dương và Tân Long là hai huyện của phủ Tân Bình tỉnh Gia định xưa. Sự lắp ghép chuyển dịch này vẫn còn tiếp diễn, có thể dễ dàng tìm thấy hàng loạt địa danh bắt đầu bằng chữ Bình và chữ Tân trên địa bàn miền Nam, và đặc biệt ở vùng đất Bình Dương ngày nay như Bình Hòa, Bình Chuẩn, Bình Nhâm...; Tân Thới, Tân Định, Tân Khánh. Sự chuyển dịch này đã không dừng lại hai chữ Tân và Bình mà còn nhiều địa danh khác thuộc vùng Nam bộ”.
Bình Dương thành huyện năm 1808 do khi đó huyện Tân Bình được đổi thành phủ, Bình Dương là một trong bốn huyện của phủ này. Năm 1956, tỉnh Bình Dương được thiết lập nhưng không phải trùng với địa bàn của huyện Bình Dương trước đó. Đến năm 1997, tỉnh Bình Dương được tái lập, nhưng cũng không phải hoàn toàn là địa phận của tỉnh Bình Dương trước năm 1975. Như vậy, trong lịch sử, Bình Dương là tên gọi của những đơn vị hành chính theo những cấp độ khác nhau (tổng, huyện, tỉnh), với những địa bàn lãnh thổ có biến động trong từng thời kỳ. Vốn gắn liền với Gia Định, Đồng Nai xưa, tức là miền Đông Nam bộ ngày nay, cư dân Bình Dương là một bộ phận cư dân miền Đông Nam bộ, nhưng đồng thời Bình Dương là vùng đất được bao bọc bởi sông Đồng Nai và sông Sài Gòn. Vùng đất Bình Dương từ lâu đã được biết đến với hình ảnh nhộn nhịp của sự giao thương và hội tụ từ nhiều vùng miền trong cả nước. Dưới thời thuộc địa của Pháp, như cách gọi của người đương thời, đó là tỉnh lỵ của một “tỉnh miệt vườn” thuần nông, chỉ có hai trục giao thông chính là sông Sài Gòn và Quốc lộ 13, dân số chỉ vài vạn người, chủ yếu là nông dân.
* Phường Chánh Hiệp mới hình thành sau khi nhập các phường Định Hòa, Tương Bình Hiệp và các khu phố 7, 8, 9 thuộc phường Hiệp An; các khu phố Chánh Lộc 3, Chánh Lộc 4, Chánh Lộc 5, Chánh Lộc 6, Mỹ Hảo 1, Mỹ Hảo 2 thuộc phường Chánh Mỹ cũ.
Chánh Hiệp là tên làng xưa, hình thành năm 1927, trên cơ sở sáp nhập hai làng có từ thời nhà Nguyễn là làng Chánh An và làng Chánh Thiện. Đến 1956, làng Chánh Hiệp đổi thành xã Chánh Hiệp, gồm 5 ấp Chánh An, Chánh, Chánh Bình, Chánh Lộc, Mỹ Hảo. Sau năm 1975, ấp Chánh được sáp nhập vào phường Phú Cường mới thành lập, ấp Chánh An và Chánh Bình sáp nhập thành phường Hiệp Thành, ấp Mỹ Hảo và Chánh Lộc sáp nhập thành xã Chánh Mỹ. Chánh Hiệp cũng là tên một con dốc có chiều dài 380m, tên dốc có lẽ ra đời gắn với tên làng Chánh Hiệp.
* Ba phường Phú Cường, Phú Thọ, Chánh Nghĩa và các khu phố 1, 2, 3, 4 của phường Hiệp Thành; các khu phố Chánh Lộc 1, Chánh Lộc 2, Chánh Lộc 7 của phường Chánh Mỹ nhập lại thành phường Thủ Dầu Một mới.
Tên gọi Thủ Dầu Một theo truyền khẩu thì xuất phát từ tên của một đồn lính thời Nguyễn duy nhất đóng ở đầu sông để kiểm soát vùng Biên Hòa. Đồn này đóng trong một rừng cây dầu nên gọi địa điểm này là Thủ Dầu Một (tức là đồn lính đứng một mình trong rừng dầu ở địa đầu sông).
Một cách giải thích khác: “Thủ là chăm sóc giữ gìn, còn có nghĩa là một đồn binh, đồn tuần tra. Ngự (còn gọi ngữ) là ngăn lại, chống lại. Những thủ (đồn) thường lấy tên người cai quản từ buổi đầu mà đặt (Thủ Đức, Thủ Thiêm, Thủ Thừa) nhưng cũng lấy nét đặc trưng của quang cảnh, Thủ Dầu Một, nơi có cây dầu đơn độc, cao lớn, từ xa dễ nhận ra”.
Nhà văn - nhà biên khảo Sơn Nam thì cho rằng, địa danh Thủ Dầu Một có nguồn gốc Hán tự: “Thời trước, khi viết chữ Hán, người Hoa viết ‘Thổ Long Mộc’ để gọi xứ Thủ Dầu Một. Kiểu phiên âm, theo giọng đọc lên nghe na ná. Cây dầu từ xưa theo chữ Hán là ‘dù mộc’ (dù là dầu). Dầu lấy từ cây dầu rái, chữ Hán gọi ‘mãnh hoả’, theo nghĩa dầu bốc cháy rất mạnh”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, khi đề cập đến tỉnh lỵ của tỉnh mới Bình Dương, cũng cước chú thêm rằng: “…Tỉnh lỵ được đặt tại Thủ Dầu Một nhưng đổi tên là Phú Cường (trong địa phận làng này xưa có thủ sở gần cây dầu lớn nhất)”.
Học giả Lê Trung Hoa lại giải thích: “Từ giữa thế kỷ XIX trở về trước, có địa danh Dầu Một (tên chợ). Theo người địa phương, trước kia tại nơi đây có một cây dầu cao vượt hẳn lên trên. Đến cuối thế kỷ XIX, có địa danh Thủ Dầu Một. Thủ là đồn canh dưới thời phong kiến. Vì đồn ở dưới hoặc cạnh cây dầu trên nên mới có địa danh Thủ Dầu Một…”.
Ngoài ra còn có một luồng ý kiến suy luận địa danh Thủ Dầu Một có thể có liên hệ đến tên gọi vùng đất hai bên sông Sài Gòn hiện nay, đã được phiên âm từ tiếng Khmer hay tiếng Stiêng thành âm Hán Việt là Băng Bột hay Băng Vọt. Trong vài cuốn sách sử còn có đề cập đến chợ Băng Bột, tiền thân của chợ Phú Cường, nhưng dân gian lại gọi là chợ Dầu Một (hay Dầu Miệt).
Như vậy, tên gọi Thủ Dầu Một có cả yếu tố Thủ (đồn binh), cây dầu và vùng đất ven sông có nhiều cây dầu mà người bản địa xưa kia gọi bằng một thổ âm có thể phiên âm trại thành Băng Bột (Hán tự) và Dầu Một (âm Nôm). Thủ Dầu Một là đồn binh ở vùng Dầu Một xưa.
Thủ Dầu Một cũng được đặt tên cho bến đò, chợ.
Tài liệu tham khảo:
- Địa danh ở Bình Dương (Tiến sĩ Huỳnh Ngọc Đáng chủ biên)
- Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn - Biên Hòa (Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu)
- Thư mục toàn văn “Bình Dương đất nước con người”, tập I năm 2002
- Từ điển từ nguyên địa danh Việt Nam (Nhà nghiên cứu Lê Trung Hoa)
- Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh (Nguyễn Văn Hầu - 1970)
- Tạp chí Xưa và Nay (Hội khoa học lịch sử Việt Nam - 1997)
- Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam bộ và tiếng Việt văn học (Nhà nghiên cứu Lê Trung Hoa)
- Địa chí tỉnh Sông Bé (Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng)
MINH HẢI thực hiện
Bình luận