Quá trình hình thành và cơ cấu nhân sự của Giáo hội địa phương
Từ năm 1659 đến 1975
Cơ cấu tổ chức của Giáo hội Công giáo Việt Nam, trước năm 1975 ở miền Nam còn có một tổ chức với tên gọi Hội đồng Giám mục Việt Nam. Đây là một tổ chức ra đời sau Công đồng Vatican II (1962-1965).
Hội đồng Giám mục
Căn cứ vào sự phê chuẩn của Tòa Thánh đề ngày 24.2.1967, Hội đồng Giám mục được xem là cơ quan cao nhất của Giáo hội Công giáo miền Nam. Cần lưu ý do tình hình đất nước chia làm hai miền, Công giáo ở miền Bắc do những điều kiện khác nhau nên không tiếp cận được với Công đồng Vatican II. Công giáo ở miền Nam theo tinh thần của Công đồng Vatican II thành lập tổ chức Hội đồng Giám mục Việt Nam (thực ra chỉ có vai trò ở miền Nam).
Theo tinh thần của Công đồng Vatican II, Hội đồng Giám mục có mục đích vừa để các vị giám mục có dịp phối hợp hoạt động của mình chặt chẽ hơn với các giám mục khác, vừa để các vị giám mục quy định những điều kiện hình thức và phương pháp làm tông đồ thích hợp với hoàn cảnh từng địa phương.
![]() |
Sơ đồ 1 |
Như vậy, trong một số công việc nào đó, Giáo hội Công giáo miền Nam được quyền quy định và giải quyết theo những quy chế trên mà không phụ thuộc vào Tòa Thánh. Đó là những vấn đề liên quan đến mục vụ và phụng vụ, nghĩa là phương thức mang lại lợi ích cho Giáo hội hoặc những hình thức lễ nghi của Giáo hội cho phù hợp với mỗi địa phương. Những vấn đề liên quan đến tín lý hoặc đến nghĩa vụ của giám mục đã được quy định trong Bộ Giáo luật thì phải do Tòa Thánh quy định.
Hội đồng Giám mục được thành lập từ tháng 2.1967, nhưng những tổ chức mục vụ của Giáo hội Công giáo miền Nam với các ủy ban giám mục do các miền đảm nhiệm chỉ mới được triển khai vào tháng 2.1971 và hoàn thành vào tháng 5.1971. Đây là sự thay đổi lớn về cơ cấu của Giáo hội miền Nam theo đúng tinh thần canh tân của Công đồng Vatican II và những nghị quyết quan trọng của Hội đồng Giám mục Á châu nhằm thích ứng với điều kiện và hoàn cảnh miền Nam[1].
Với sự thành lập của Hội đồng Giám mục Việt Nam (miền Nam), ta có sơ đồ 1.
Trong khi đó, hệ thống tổ chức của Công giáo ở miền Bắc, dưới Giáo Hoàng (Tòa Thánh) là giáo tỉnh Hà Nội, tiếp theo là giáo phận, giáo hạt, giáo xứ, dâu, giáp, lân.
![]() |
Sơ đồ 2 |
Hội đồng Giám mục thời đó có 4 ủy ban: Phụng vụ; Truyền bá Phúc Âm; Đặc trách Xã hội; Đặc trách Văn hóa. Mỗi ủy ban giao cho một miền phụ trách, mỗi miền gồm một số địa phận nhất định. Miền Trung duyên hải đặc trách Xã hội gồm các địa phận: Qui Nhơn, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang. Miền Trung cao nguyên đặc trách Văn hóa gồm các địa phận: Kon Tum, Ban Mê Thuột, Đà Lạt. Miền Sài Gòn đặc trách Phụng vụ gồm các địa phận: Phú Cường, Sài Gòn, Xuân Lộc. Miền Cửu Long đặc trách Truyền bá Phúc Âm gồm các địa phận: Vĩnh Long, Long Xuyên, Mỹ Tho, Cần Thơ (Sơ đồ 2).
Trên nguyên tắc, Hội đồng Giám mục tạo sự liên kết giữa hàng giáo phẩm, giáo sĩ và giáo dân. Mỗi ủy ban do một giám mục một miền phụ trách và nhiều linh mục tham gia. Một số linh mục được giao đứng đầu các tiểu ban. Giáo dân cũng được tham gia một số mặt về phụng vụ, truyền thông xã hội và làm thư ký cho các tiểu ban.
Song, về mặt thực tế, sự liên kết trên hoàn toàn mang tính cá nhân. Linh mục và giáo dân tham gia vào Ủy ban giám mục chỉ có nhiệm vụ thừa hành, về hình thức có sự liên kết, nhưng thực tế sự cộng tác trên không được giáo dân và tất cả các linh mục biết tới, vì họ không đại diện cho một đoàn thể nào.
Về tổ chức mục vụ theo 4 miền của Hội đồng Giám mục như trên có sự thiếu hợp lý trong việc phân định ranh giới của giáo tỉnh và miền phụng vụ, từ đó gây trở ngại cho việc điều hành những hoạt động tôn giáo. Địa phận thuộc giáo tỉnh này nhưng lại ở miền phụng vụ khác do một giám mục riêng điều khiển.
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
1 Hội đồng Giám mục châu Á họp tại Manila (Philippines) từ ngày 23-29.11.1970 với sự tham gia của 8 hồng y, 189 tổng giám mục và giám mục. Đề tài mà Đại hội bàn là “Sự đóng góp của Giáo hội vào cuộc phát triển các dân tộc Á châu”.
Bình luận