NIỀM TIN VÀ THỰC HÀNH NGHI LỄ CÔNG GIÁO
VỀ THỜ PHỤNG ÐỨC MARIA
Trong quan niệm thờ phụng Ðức Maria có những danh xưng khác nhau. Trước hết là danh xưng mang tính hoàn vũ, nghĩa là tất cả tín hữu Công giáo trên toàn thế giới đều hiểu biết được mầu nhiệm, ý nghĩa mỗi danh xưng. Các danh xưng đó là Mẹ Thiên Chúa; Mẹ Giáo hội; Mẹ Vô nhiễm nguyên tội; Mẹ Ban ơn; Mẹ Sầu bi, Mẹ Hằng Cứu giúp, Mẹ Mân Côi...
Một số danh xưng của Ðức Maria mang tính địa phương rồi lan truyền ra nhiều dân tộc theo Công giáo như Mẹ Lộ Ðức (Pháp); Mẹ Fatima (Bồ Ðào Nha). Một số danh xưng của Ðức Maria chỉ xuất hiện ở Việt Nam như Mẹ Trà Kiệu, Mẹ Bãi Dâu, Mẹ La Vang…
Tuy cũng là hình ảnh của Ðức Maria, nhưng mỗi danh xưng lại có những nét đặc thù. Xét về quan niệm tín lý của Giáo hội, Ðức Maria và các Thánh chỉ được thờ kính, và không trực tiếp ban ơn cho tín hữu. Ðức Mẹ và các Thánh thông công chỉ đóng vai trò trung gian “cầu bầu mà xin ơn Ðức Chúa Trời” cho loài người. Song trên thực tế, người Công giáo Việt Nam đã chuyển hóa vai trò tôn thờ, cũng có nghĩa là chuyển hóa niềm tin nơi Ðức Maria theo một quan niệm Nữ thần[1].
|
Tôn giáo truyền thống Việt Nam coi trọng việc tôn thờ MẸ (Mẫu, Thánh Mẫu, Nữ thần). Mẹ là sinh sôi, nẩy nở; mẹ là khoan dung, che chở (phù hộ, hộ mệnh).
Các nhà dân tộc học giải thích yếu tố thờ MẸ là dấu ấn văn hóa hay bản thân chế độ mẫu hệ tồn tại, lưu truyền. Cuộc sống nông nghiệp coi trọng yếu tố Ðất - Mẹ - Âm, thống nhất và đối lập với Trời - Cha - Dương.
Vai trò MẸ, yếu tố nữ xâm nhập vào hầu hết các tôn giáo truyền thống và tôn giáo bình dân. Quan âm của đạo Phật từ một nam thần bên Ấn Ðộ, đến Việt Nam được chuyển thành nữ. Phật giáo vào Việt Nam sản sinh ra Phật giáo dân gian Việt Nam với hệ thống tứ pháp (Lôi, Vũ, Vân, Ðiện) toàn nữ.
Ở Việt Nam, giáo dân gọi Ðức Maria là Mẫu, Thánh Mẫu. Sự chuyển hóa vai trò tôn thờ và niềm tin nơi Ðức Maria thể hiện ở ba đặc trưng: Che chở; Ban ơn; Sinh sôi.
Che chở
Trong khó khăn, gian khổ, khi gặp hoạn nạn, các giáo sĩ cũng như tín hữu đều đến cầu xin Ðức Maria che chở. Thể hiện rõ nhất là thời kỳ đạo Công giáo bị nhà nước phong kiến Việt Nam ngăn cấm, mỗi lần bị vây bắt, bị tàn sát, các giáo sĩ và tín hữu đều cầu xin sự che chở, cứu khổ cứu nạn của Ðức Maria.
Hoàng Xuân Việt hoàn toàn có lý khi viết: “Hồi thời cấm đạo người ta bám sát tà áo Ðức Mẹ”[2].
Ban ơn
Tín hữu Công giáo tìm đến Ðức Maria để xin được ban ơn toại nguyện trong cuộc sống hằng ngày: no đủ, buôn may bán đắt, bình an, đi lại an toàn...
Một ví dụ về việc cầu xin Ðức Maria ban ơn được thể hiện trong Ca vè xây cất đền thánh Phú Nhai (1916 - 1924) với nhiều câu nhắc đến phù trì, ban ơn.
Bạc tiền chưa có là gì
Chỉ trông Ðức Mẹ phù trì khi nay.
... Mọi người vui vẻ ra đi
Cậy trông Ðức Mẹ phù trì khi nay.
...Vì ơn Ðức Mẹ nhiệm mầu
Khắp hòa trên dưới cùng nhau một lòng.
... Ắt là Ðức Mẹ mở lòng
Ban ơn giúp sức ta trong hội này[3].
Sinh sôi
Hình tượng về mẹ là hình tượng của sự sinh sôi, nảy nở. Ở Việt Nam, Ðức Maria cũng được các tín hữu Công giáo tin vào chức năng “quan phòng” trên. Những người muộn mằn về đường con cái tìm đến Ðức Maria - Mẹ, cầu xin cho được sinh con đẻ cái. Con trẻ sinh ra khó nuôi, nhiều gia đình vùng đồng bằng Bắc Bộ đã đem “bán” con trẻ cho Mẹ. Khi trẻ 13 tuổi thì làm lễ, xin về. Ðây chính là hình thức “bán khoán” trẻ cho đền, phủ hoặc cho chùa (Phật) vẫn thường thấy ở người Việt không Công giáo. Tập tục này vẫn được duy trì cho đến ngày nay ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Từ việc chuyển hóa niềm tin, người Công giáo Việt Nam đã chuyển hóa sự tôn thờ Ðức Maria. Tháng Năm được chọn làm Tháng Hoa Ðức Mẹ với nhiều nghi lễ trọng thể, nổi lên là kiệu hoa, làn múa hát dâng hoa mang đậm tâm linh Việt. Nhiều thánh đường to đẹp được dâng kính cho Ðức Maria. Ðã có khối lượng ca - vè - vãn đáng kể do giáo sĩ hoặc tín hữu Công giáo Việt Nam sáng tác để ca ngợi Ðức Maria. Linh mục Trần Lục, chánh xứ Phát Diệm (Kim Sơn, Ninh Bình) là một trong những người được xem là có lòng sùng kính Ðức Maria và cổ vũ triệt để việc lần hạt Mân Côi.
Tín hữu Công giáo thế giới và Việt Nam còn có một niềm tin vào sự hiện ra (hiện hình) của Ðức Maria. Ðối với việc hiện ra của Ðức Maria trong những thời gian gần đây, Tòa Thánh cũng như Giáo hội Công giáo Việt Nam đều có những thận trọng trong việc xác tín.
Niềm tin vào phép lạ và niềm tin vào Ðức Maria hiện ra được thể hiện qua phiếu điều tra xã hội học tôn giáo của Viện Nghiên cứu Tôn giáo.
Bảng thống kê cho thấy nếu gộp cả tỷ lệ phần trăm ngờ vực, nghĩa là bán tín, bán nghi, thì có 89,2% những người được hỏi tin vào việc Ðức Maria hiện ra.
Về phép lạ: việc Ðức Maria hiện ra cũng thuộc về phép lạ, song phép lạ còn bao chứa cả những điều khác thường mà Thiên Chúa, các Thánh ngay cả thánh tử đạo có thể làm được. Vì vậy mà số người được hỏi chỉ có 68,55% tin. Ðiều đó cũng thật dễ hiểu.
Năm 1998 (từ 13 - 15.8), Giáo hội Công giáo Việt Nam tổ chức kỷ niệm sự kiện 100 năm Ðức Mẹ hiện ra ở La Vang, với hình thức Ðại lễ tam nhật vượt qua. Sự kiện này được tiến hành trong vòng một năm và kết thúc vào ngày 15.8.1999. Trong ba ngày khai mạc, chúng tôi có mặt tại La Vang để tham dự. Một trong những điều chúng tôi nhìn thấy là hàng hàng giáo dân chen chúc nhau để làm những công việc sau: Lấy tay mình miết vào tượng mẹ La Vang rồi xoa lên người mình hoặc người thân (trẻ em, người tàn tật không thể đến gần tượng); đưa những đồ vật (ăn, uống, thuốc chữa bệnh...) chạm được vào tượng, vào tay tượng càng tốt, kèm theo những lời cầu xin để mong nhận được sự ban phát ơn ích từ Mẹ La Vang.
Nhân tiện cũng nói thêm rằng, do có một niềm tin vào Ðức Maria, cách riêng là niềm tin vào Mẹ La Vang, mà hình tượng Mẹ La Vang mang gương mặt nhân lành của người phụ nữ Việt Nam : đầu đội khăn vành, khoác áo đại triều màu thanh thiên, chân đi hài. Hình tượng Chúa Hài đồng là hình chú bé người Việt mặc áo hồng.
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
_________________________
1 Có thể xem thêm: Nguyễn Hồng Dương: Tính đa hệ trong tôn thờ của người Công giáo Việt Nam. Trong sách: Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ờ Việt Nam. GS Ðặng Nghiêm Vạn chủ biên. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998.
2 Hoàng Xuân Việt: Thắng cảnh Phát Diệm, UBÐKCG TPHCM, 9-1991.
3 Về đợt xây dựng đền Thánh Phú Nhai (1916 - 1924). Tài liệu điền dã của tác giả.
Bình luận