Một cô giáo trẻ tình nguyện lên dạy học ở miền núi xa xôi. Nơi cô đến còn nghèo nàn lạc hậu, thiếu thốn điện đường trường trạm. Dân bản chủ yếu dùng sức người để trồng trọt, chăn nuôi; đời sống khó khăn trăm bề, việc cho trẻ em đi học bị xem nhẹ. Dù cô giáo đã đi khắp bản vận động, người lớn vẫn không mặn mà cho con cháu đến trường, lũ trẻ thì đang tuổi ham chơi, chắc gì đã chịu ngồi yên một chỗ nghe giảng, tập viết.
Sau khi đi vận động dân bản “đưa trẻ đến trường” thất bại, cô đành thất thểu trở về điểm trường mái tranh vách nứa. Nào ngờ, ở đó có một thiếu niên tầm 13-14 tuổi đứng chờ. Da em đen sạm, người gầy gò, tay chai sần, chân đất nhưng đôi mắt rất sáng. Lúc nghe cô giáo nói với cha mẹ về lợi ích của việc học, em đã tò mò muốn biết “học” nghĩa là gì.
Có được học trò đầu tiên, cô giáo vui lắm. Cô bắt đầu dạy bảng chữ cái và một vài từ đơn giản, sau đó dạy đếm số. Em tiếp thu chậm nhưng rất chăm chú, không ngại hỏi lại điều chưa rõ. Hết giờ học, cô giáo tặng cuốn vở và cây bút chì. Về nhà, em bị mắng té tát vì dám trốn việc, cha suýt vứt cả vở, bút cô giáo tặng. Mấy ngày sau, hai cô trò phải thuyết phục nhiều lần, cha mẹ em mới đồng ý, với điều kiện không được lơ là phụ giúp gia đình. Hàng xóm hay tin, chê cười nhà em cho con làm chuyện vớ vẩn, vô ích. Mặc những lời gièm pha, em và cô giáo vẫn kiên trì tập đọc, viết, học các phép tính…
Một hôm, em mang củi và nông sản xuống chợ phiên. Dân bản đều tận dụng các phiên chợ để trao đổi thức ăn, vật dụng cần thiết, nhưng ai cũng kiếm được rất ít, bởi vậy bao năm qua vẫn nghèo. Thế nhưng, lần này em phát hiện ra sự vô lý khi một bao ngô đổi được một gói kẹo nhỏ, mà 5 bao ngô cũng chỉ đổi được 2 gói kẹo; rau củ vừa tươi vừa nhiều chỉ đổi được vài món đồ lặt vặt. Nhờ biết chữ và làm toán, em mạnh dạn tính toán cho người mua hàng rồi trao đổi sòng phẳng. Kết quả là hôm đó em đổi được nhiều đồ hơn, tương xứng với giá trị số hàng của gia đình. Về đến nhà, cha mẹ vô cùng ngạc nhiên vì phiên chợ này kiếm được nhiều hơn hẳn hồi trước. Em vui vẻ nói là nhờ đi học, từ đó gia đình chẳng phiền lòng khi em đến trường nữa. Thỉnh thoảng, cha mẹ còn tặng lâm sản cho cô giáo và khoe với hàng xóm con mình giỏi giang nhờ học đến đâu, em tìm cách áp dụng đến đấy, như người cày xong ruộng là siêng năng gieo hạt.
Những phiên chợ sau, vài nhà hàng xóm neo người còn nhờ em đem nông sản đổi hàng giúp. Tiếng lành đồn xa, lại thêm nhà em ngày càng khấm khá nhờ bán hàng đúng giá, dân bản liền đua nhau cho con đến lớp. Từ đó, khi xuống chợ phiên, ngoài những thứ thiết thực, dân bản còn mua thêm sách vở, bút thước cho trẻ em đi học, thậm chí người lớn cũng đến lớp. Đời sống bản làng ngày càng càng ấm no, phong phú hơn.
*
“Sự hiểu biết chưa bao giờ là một gánh nặng. Nó là chiếc chìa khóa mở cánh cửa cho sự tự do” (Harry S. Truman). Ở bản làng trên núi cao, “những người con của rừng” đã sống qua bao đời mà không cần đến trường. Việc nương rẫy, chăm sóc nhà cửa và dạy dỗ trẻ con đều được truyền lại theo lối “cầm tay chỉ việc” hoặc kinh nghiệm tổ tiên. Dù cô giáo “cắm bản” có khổ công khuyên giải, kêu gọi thế nào, họ cũng không có nhu cầu học chữ nghĩa. Chỉ khi học trò đầu tiên của cô cho mọi người thấy kết quả rõ ràng, thực tế và có ích, họ mới công nhận việc học và tự giác đến trường. Chàng thiếu niên như chiếc “chìa khóa”, khai mở cánh cổng cũ kỹ của nếp nghĩ, khiến cả cộng đồng nhận ra “có cày có thóc, có học có chữ”. Từ đó họ tự “cải cách” mà chẳng tốn công thuyết phục.
Thế mới thấy con đường thay đổi tương lai rất gian nan vất vả, nhưng đôi khi lại đơn giản hơn ta nghĩ.
Ths-Bs Lan Hải
Bình luận