Impositio Manuum, Imposition of Hands, Imposition des Mains
Trong một số nền văn hóa và tôn giáo, đặt tay trên một người hay một vật là dấu chỉ của việc muốn ban sức, chữa lành, trao nhiệm vụ hay chúc lành.
Trong Cựu Ước, đặt tay là: dấu chỉ chúc phúc cho con cháu (x. St 48,13-16); dấu chỉ Thần Khí Thiên Chúa thánh hiến một ai đó, như tư tế (x. Ds 8,10), lãnh tụ dân (x. Đnl 34,9; Ds 27,15-23).
Trong Tân Ước, Chúa Giêsu đặt tay khi chúc phúc cho trẻ em (x. Mc 10,16 và //) hoặc khi chữa lành các bệnh nhân (x, Lc 13,13; Mc 8,23 tt; Lc 4,40); các tông đồ đặt tay trên 7 phó tế vừa được tuyển chọn (Cv 6,6), trên những người đã được thánh tẩy để họ được lãnh nhận Chúa Thánh Thần (x. Cv 8,17); và cộng đoàn đặt tay trên các môn đệ để trao sứ mệnh (Cv 13,1-3).
Phụng vụ của Giáo hội Công giáo tiếp nối cử chỉ đặt tay của Chúa và các tông đồ, để kêu cầu tác động thánh hiến của Chúa Thánh Thần khi cử hành các Bí tích: Thánh Thể, Thánh Tẩy, Thêm Sức, Xức Dầu Bệnh Nhân. Đặc biệt trong Bí tích Truyền Chức Thánh, việc đặt tay cùng với lời nguyện làm thành dấu chỉ cốt yếu để thánh hiến và ban năng quyền cho thụ nhân (x.1 Tm 4,14; 2 Tm 1,6). Ngoài ra, đặt tay còn được dùng trong các á bí tích như nghi thức trừ tà, ban phép lành trọng thể.
Tiểu ban Từ vựng - UBGLĐT/HĐGMVN
Bình luận