Kỳ 5: Ngoái đầu nhìn lại thân đã trăm năm
Xin được mở ngoặc nói ngay, tựa bài chúng tôi chọn đặt là một cách dịch nghĩa của một trong hai câu thơ được khắc trên bia mộ của Nguyễn Trường Tộ, nguyên chữ là“Tái hồiđầu thịbách niên cơ”(cũng có người dịch là“Quayđầu trởlại là trăm năm cơđồ”).Nhưng, dầu dịch với nghĩa nào, thì câu thơ trên cũng không thể được hiểu trong nghĩa hẹp là câu ông cảm thán về bản thân. Vì sao vậy ? Ðơn giản, tầm của Nguyễn Trường Tộ không phải chỉ ngang với những thao thức cá nhân, những bảnđiều trần của ông không dừng lạiởchỗ“góp ý lấy tiếng”.Ông trăn trởtrên vận mệnhđất nước và dốc lòng chỉhướng canh tân cho triều đình cũng xuất phát từ tình tự dân tộc. Chúng tôi sẽ phân tích ở những phần dưới đây.
![]() |
Như đã đề cập ở những bài trước, Nguyễn Trường Tộ sinh ra ở quê nội là làng Bùi Chu, nay thuộc giáo xứ Xã Đoài; và cũng mất trên miền đất này, lăng mộ cũng yên vịtạiđó.Nằm tả ngạn sông Lam, phía Nam tỉnh Nghệ An, vùng Bùi Chu có bề dày lịch sử và trầm tích văn hóa khá lâu đời… Lăng mộông qua hơn một thế kỷ rưỡiđã trởthành một phầnđời sống tinh thần của bà con xóm đạo nơi đây. Bia đá đã mòn trơ nhưng hương khói chưa bao giờ nguội lạnh.
Hôm về thăm làng, ngay từ lối rẽ đầu ngõ nhà thờ, từ xa, chúng tôi đã thấy thấp thoáng bóng dáng thánh giá đặt trên mộ phần. Thời điểm đó khu vực lăng đang được sửa chữa, lát đá, sơn phết, nâng cao nền mộ để tránh những mùa lụt miền Trung và tăng thêm phần trang trọng. Toàn thể khu lăng mộ được Bộ Văn hóa và Thông tin công nhận là Di tích Văn hóa từ năm 1992. Theo các bô lão trong làng, năm 1868, khi được Đức cha Gauthier ủy thác việc xây dựng Nhà Chung Xã Đoài, Nguyễn Trường Tộ đã cất một căn nhà nhỏ ngay cổng Tòa Giám mục Vinh hiện nay để ở cho thuận tiện việc đốc xuất công trình. Ông lưu trú tại đây đến năm 1871 và mất ngay trong ngôi nhà này. Sau khi qua đời, linh cữu được đưa về an táng ở nơi gọi là bãi Đá Mài, cách khu mộ bây giờ chừng 300m về phía Tây. Nấm mộ đơn sơ, được đắp đất thấp lè tè, như bao ngôi mộ khác của làng Bùi Chu từ ngàn đời trước.
![]() |
Tác giả loạt bài viết bên mộ phần Nguyễn Trường Tộ |
Năm 1942, nhà văn TừNgọc Nguyễn Lân và một sốnhân sĩgốc NghệAn - Hà Tĩnh thời bấy giờđã quyên gópđược một sốtiền, gởi nhờlinh mục Leonard Laygue - một thừa sai - xây lăng mộ, dựng bia cho Nguyễn Trường Tộ. Cố Laygue đã trao phó cho linh mục CHÂU, chánh xứ Xã Đoài lúc đó thực hiện. Lăng mộ bằng đá Thanh Hóa khá khang trangđược hoàn thành năm 1943, tọa lạc trênđất làng Bùi Chu, tổng HảiĐô,Hưng Nguyên,NghệAn.Đến năm 1996,tức 4 năm sau khi khu mộ được công nhận là Di tích Văn hóa, huyện Hưng Nguyênđã đầu tư kinh phí xây dựng nâng cấp khu di tích. Công trình tưởng niệm vị danh nhân bắt đầu có hàng rào, vườn hoa, cây cảnh giản dị giữa khu dân cư thôn quê. Hằng năm, chính quyền địa phương vẫn đều đặn tổ chức lễ dâng hương tưởng nhớ ngày sinh của ông. Người làng vẫn hằng ngày hương khói cho một người mà tên tuổi đã vang xa cùng tên làng mình trên khắp đất nước. Giáo xứ Xã Đoài và giáo họ Bùi Chu vẫn thường xuyên hương hoa, kinh nguyện cho người tín hữu giỏi giang, nhiều công trạng. Dịp ghé thăm mộ cụ, chúng tôi cũng may mắn được gặp gỡ, trao đổi với Đức cha Anphong Nguyễn Hữu Long - Giám mục giáo phận Vinh đương nhiệm. Ngài rất quan tâm đến vị giáo dân lỗi lạc một thời của giáo phận. Đức cha ước mong giáo phận có điều kiện chung tay cùng ngành văn hóa xây dựng một khu lưu niệm Nguyễn Trường Tộ cho xứng tầm với vị trí của cụ trong lịch sử phát triển xã hội Việt Nam.
Về kiến trúc và chi tiết khu mộ hiện tại, phía trước lăng là bia đá ghi công trạng do Ban quản lý di tích Nghệ An lập dựng, bên trong và lối vào có trồng nhiều hoa, toàn bộ diện tích lăng mộ có lẽ nhỉnh hơn 1000m2một chút. Hàng đầu tiên khắc trên bia là tên và tên thánh:Phaolô Nguyễn Trường Tộ, năm sinh ghi 1828 (nhưng như đã nói trong bài đầu tiên, chính xác phải là năm 1830, vì ông mất năm 1871 và ông Nguyễn Trường Cửu - con trai ông -đã xác nhận ông mất khi 41 tuổi trong cuốn “Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ).“Tư chất thông minh, tài ba lỗi lạc, giỏi chữ Tàu, thông tiếng Pháp”là những gì ngườiđời tóm lược khắc trên biađá.Tổng thểmộ có dáng dấp của một bia mộ cổ, nhưng lại pha trộn nét đặc trưng kiến trúc của Công giáo với cây thập giáđặt trên chóp.Ngay dưới thập giá có chạm hình trổ đầu rồng và hoa văn mây, nước, hoa lá. Theo lý giải của các nhà nghiên cứu thì các chi tiết chạm trổ hình hoa mai, hoa lựu, cây bút, cuốn thư và 4 con dơi theo văn hóa người xưa là mang hàm ý đem Phúc, Lộc, để lại cho muôn đời con cháu. Phía trước và mặt bên của cột trụ bia chạm 2 câu đối bằng chữ Hán và chữ Nôm, ngợi ca tinh thần chí khí của một con người tài hoa và yêu nước. Câu đối phía trước chữ Nôm:“Kính Chúa yêu người hằng tạc dạ/ Trung vua mến nước vốn ghi lòng”;câuđốiởmặt bên chữHán :“Trung quân chính sách quang tiền sử/Ái quốc tinh thần khởi hậu nhân”.
![]() |
Quang cảnh khu vực lăng mộ |
Đặc biệt nhất là hai câu thơđược xem là của Nguyễn Trường Tộ,khắc hai bên trên xuống, có nội dung :“Nhất thất túc thành thiên cổ hận/ Tái hồi đầu thị bách niên cơ”; tạm dịch:“Một lần sảy chân ngàn đời ôm hận/ Quay đầu trở lại là trăm năm cơ đồ”.Nhận xét về hai câu thơ này, đã có không ít người nói chi tiết ông viết “nhất thất túc” - một lần sảy chân - là ám chỉ việc cá nhân ông xem chuyện từng cộng tác, làm phiên dịch cho người Pháp là một lần sai lầm, là bi kịch cuộc đời… Nếu giải nghĩa hay suy diễnđơn thuần nhưvậy,là chưa hiểu hết về phẩm chất lẫn tầm tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ. Trong bài“Nghĩ về hai câu thơ”đăng trên báoCông giáo và Dân tộcsố 934, ra ngày 21.11.1993, tác giả Mai Chi phân tích :“Bên cạnh ngòi bút hùng biện đặc sắc, Nguyễn Trường Tộ còn có một cách nói riêng, tạm gọi là phương pháp gián cách. Đó là đoạn ông tự kết tội mình trong phần cuối bản điều trần số 3. Cái cách tự kể tội mà làm người nghe phải xót xa, làm người trí thức phải hổ thẹn. Nói là mình có tội, nhưng người đọc phải nghĩ khác…”, rồi liên tưởng đến nghĩa sâu xa từ hai câu thơ Nguyễn Trường Tộ để lại và được khắc trên mộ phần ông :“Nhất thất túc thành thiên cổ hận/ Tái hồi đầu thị bách niên cơ, Nguyễn Trường Tộ nói về ai vậy ?Ông nói vềmình nhưmột lời tựthán,hay mượn mìnhđểnói với triềuđình TựĐứcđang quyết liệt“bếquan, bảo thủ",nhưmột lời ký thácđauđớn ? Nếu chỉđểgiãi bày một bi kịch bản thân,e không còn là Nguyễn Trường Tộnữa. Do vậy, với một NHÂN CÁCH NGUYỄN TRƯỜNG TỘ,câu thơđã có ý nghĩa vượt lên trên,lớn lao hơn nhiều bản thân Nguyễn Trường Tộ.Nó là câu nóiđểđời của người sắp mất. Câu nóiấy tất phải có trọng lượng, phảiđem lại lợi ích chođời, mới là KHẨU KHÍ NGUYỄN TRƯỜNG TỘ…”(Mai Chi - bđd).
Thật vậy, nếu có dịp đọc hết 58 bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ, chúng ta sẽ thấy cách lý giải này rất có cơ sở và xácđáng.Hiểu theo nghĩa rộng, câu thơnhưmột lời cảnh báo nghiêm khắc của ông với triều đình Tự Đức, rằng một bước sảy chân, tức bỏ lỡ cơ hội thời cuộc để canh tân đất nước và tiếp nhận văn minh thời đại, sẽ ân hận ngàn đời…Đây có thểxem là bảnđiều trần thứ59của ông, bảnđiều trần ngắn nhất so với những bảnđiều trầnđã gởiđi, từmột con người nhiệt thành,đến chết vẫn xác tín vềnhữngđiều mình viết và vẫn hy vọng sựthức tỉnh nơi vua quan thời bấy giờ.Nói nhưtác giảMai Chi trong bài báo dẫnởtrên là“cái thực sự bi kịch của Nguyễn Trường Tộ là nói điều phải mà người ta không biết nghe, nói điều lành mà người ta nghĩ xấu - đầy ngờ vực…”.
![]() |
Bia ghi công trạng của Nguyễn Trường Tộ |
Nguyễn Trường Tộđã chia sẻniềm vui, nỗi buồn và sốphận của một thờiđại.Ôngđã không chán nản bỏcuộc theo cách của một sốnhà cải cáchđương thời nhưNguyễn TưGiản, Phạm Phú Thứ...Tháiđộ“học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện”(học không biết chán,dạy không biết mệt) của ông chắc hẳnđã cóđược từlòng mến Chúa yêu người và chỉcó cái chết mới làm ông bỏcuộc. Nguyễn Trường Tộđã sống, dấn thân,kỳvọng và chết với niềm xác tínấy.Ông quảlà một Kitô hữu gương mẫu giữa một thờiđại nhiễu nhương.
Xin thắp một nén hương trên mộ ông - mộ của một chí sĩ yêu nước, một nhân cách đáng kính trọng, một tín hữu sống đúng đòi hỏi dấn thân của Tin Mừng.
NGUYỄN MINH HẢI
Bình luận