1.
Trong sách vở xưa (lúc chưa dùng chữ Quốc ngữ), bằng Hán tự thì ghi “Tam Phụ” 三阜, còn chữ Nôm ghi tiếng thuần Việt đọc là “Ba Giồng” 𠀧 𡊸 (cả hai chữ Nôm này đều không có trong Hán tự). Hai cách gọi đồng nghĩa, nói nào ngay, tiếng thuần Việt “Ba Giồng” dễ cảm nhận, gần gũi hơn hẳn.
Có nhiều nguồn tư liệu đưa ra cách định vị và tên gọi thuộc “Ba Giồng” khác nhau. Sách Gia Định thành thông chí” định vị: “giồng Triệu, giồng Cai Lữ, giồng Kiến Định là ba giồng lớn”. Sách Đại Nam nhất thống chí kể ra ba gò tiêu biểu: “Gò Yến, Gò Kỳ Lân, Gò Qua Qua”, ngoài ra còn rất nhiều gò, giồng khác. Còn Tự vị tiếng nói miền Nam của Vương Hồng Sển, Lịch sử nội chiến Việt Nam 1771-1802 của Tạ Chí Đại Trường đều cho rằng “Ba Giồng” là địa danh chỉ ba giồng đất: Giồng Dứa, Giồng Cát (hay giồng Nhị Bình), Giồng Thuộc Nhiêu”…
Tóm lại, Ba Giồng là tên gọi chỉ vùng đất từ phía Nam sông Vàm Cỏ Tây đến sông Tiền, dọc theo con đường xưa, nay là Quốc lộ 1.
2.
Lưu dân các nơi đến Ba Giồng từ lúc nào?
Đời chúa Nguyễn thứ 4, Nguyễn Phước Tần 阮福瀕 (tức Hiền vương 賢王 ) vào năm 1679 cho nhóm người Minh Hương (phong trào “phản Thanh phục Minh”) là Dương Ngạn Địch đến phía tả ngạn hạ lưu sông Tiền lập Mỹ Tho đại phố.
Đến năm 1698, dưới đời chúa Nguyễn thứ 6, Nguyễn Phước Châu 阮福淍 (tức Minh vương 明王) sai Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược xứ Gia Định, đặt ra bộ máy hành chánh. Nhờ vậy, lưu dân người Việt từ Ngũ Quảng (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức tức Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi) và xứ Nẫu (Bình Định, Phú Yên) càng đi vào trong Nam nhiều hơn, đi thành từng đợt.
Kỳ thực, lưu dân người Việt đã vào Nam khẩn hoang lẻ tẻ từ đầu thế kỷ 17; đặc biệt kể từ sau năm 1620, khi ái nữ của chúa Nguyễn thứ nhì, Nguyễn Phước Nguyên 阮福源(tức Sãi vương 仕王), là Ngọc Vạn kết hôn với vua Chân Lạp Chey Chetta II, trở thành Hoàng hậu. Từ đó việc lập ấp, định cư của lưu dân người Việt gặp nhiều thuận lợi.
Tại khu Đất Thánh của giáo xứ Ba Giồng (nay thuộc ấp Tân Quới, xã Tân Lý Đông, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang) có nhiều ngôi mộ cổ xây bằng ô dước, với mộ bia có hình Thánh giá cho biết được lập năm 1663, 1664… (tức sau thời điểm 1620, lúc Ngọc Vạn kết duyên cùng vua Chân Lạp Chey Chetta II và trở thành Hoàng hậu Chân Lạp).
3.
Giáo xứ Ba Giồng, một họ đạo lâu đời nhứt thuộc giáo hạt Cái Bè của giáo phận Mỹ Tho [1]. Nơi đây có Trung tâm Hành hương Ba Giồng nổi tiếng, được chọn làm địa điểm hành hương của toàn Giáo tỉnh Sài Gòn vào Năm Thánh 2018.
Lịch sử họ đạo Ba Giồng gắn liền với nhiều biến cố bị bách hại, có hàng ngàn tín hữu nơi đây từng bị hành quyết trong thế kỷ 18, 19. Trong số 117 vị được tuyên Thánh tử vì đạo tại Việt Nam, có thể kể đến 2 linh mục phụ trách họ đạo Ba Giồng là cha Philipphê Phan Văn Minh (từ năm 1849 đến 1853), và cha Phêrô Nguyễn Văn Lựu (từ năm 1852 đến 1861)… [2]
Nhà thờ Ba Giồng chọn tước hiệu “Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam” vừa được đặt viên đá xây dựng lại ngày 12.5.2023, gồm có một tầng trệt hầu như để trống, có thể đón nhiều khách hành hương, nhiều tín hữu trong những dịp quy tụ đông người để cùng nhau tham dự thánh lễ một cách sốt sắng, cũng là để tạo một không gian rộng rãi và thoáng mát cho Trung tâm Hành hương Ba Giồng, cộng đoàn dâng thánh lễ ở trên lầu. Nhà thờ cũ xây năm 2000 hiện đã chật hẹp và không đáp ứng được như là một trung tâm hành hương của vùng đồng bằng.

1 Ngày27 tháng 11 năm 1960, Tòa Thánh ban Sắc chỉ Quod Venerabilis Fratres thành lập giáo phận Mỹ Tho (Dioecesis Mythoensis). Nhà thờ chính tòa Mỹ Tho, tước hiệu là “Nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội”.
2 Đọc bài Trả lại công chính cho người công chính
MATTHEW NGUYỄN
Bình luận