Giữa cái nắng mưa, sự ồn ã, huyên náo nơi đất Sài thành, đâu đó ở những góc phố, con đường, vẫn ánh lên mấy điều dễ thương, ấm áp, chân tình. Như là thùng trà đá đặt chỗ vỉa hè, mấy trạm hớt tóc, bơm xe… miễn phí đón đợi người có nhu cầu ghé qua. Và nếu có dịp đi ngang con đường Phạm Thế Hiển (quận 8 cũ), đoạn gần nhà thờ Bình Thái, cũng sẽ dễ dàng bắt gặp một tiệm ăn có đề bảng “Bún treo” phía trước, tấm bảng nhỏ nhưng gợi biết bao tò mò, níu bước người qua…

“Treo” thêm tình người
Không gian quán khiêm tốn, chỉ vừa đủ kê chiếc bàn cho 4 người ngồi, đa số khách tới đều mua mang đi. Ghé quán lúc trời chưa hửng nắng, vậy mà 10 phần bún treo buổi sáng đã được chủ quán trao hết cho những người tới nhận. “Quán tôi treo bao nhiêu cũng hết, mấy cô chú lớn tuổi tới sớm lắm, có bữa quán chưa mở cửa thì họ đã xếp hàng đợi sẵn, nhiều khi treo không đủ, tôi cũng cố gắng để ai cũng có phần, thương người ta đợi lâu”, bà Trần Thị Thúy Hồng (58 tuổi) - chủ quán kể.
Cũng xin được nói thêm, thuật ngữ “treo” bắt nguồn từ phong trào “caffè sospeso” ở Ý, nghĩa là người đến quán sẽ trả tiền nhiều hơn số phải trả, phần dư được “treo” lại để dành cho người khác, nhất là những ai khó khăn. Khi ý tưởng này làn sang Việt Nam, nhiều quán ăn, quán cà phê đã linh hoạt áp dụng, mang đến một cách sẻ chia âm thầm nhưng đầy ý nghĩa.
Quán bún riêu của bà Hồng mở đã ngót 20 năm, dầu vậy, mô hình bún treo mới chỉ hoạt động khoảng một năm nay. Trong một lần tình cờ, bà Hồng xem tivi thấy ở Hà Nội có quán phở treo, một hình thức khá mới lạ vào thời điểm bấy giờ. “Lúc đó tôi suy nghĩ gia đình mình cũng có một quán bún nho nhỏ, khách tới lui thường xuyên, tại sao không mở treo thử để giúp phần ăn cho những hoàn cảnh khó khăn”, bà Hồng nhớ lại. Bà chậm rãi kể thêm: “Có những người lao động bình dân hay nhiều ông bà già lụm khụm vẫn còn phải chắt chiu từng đồng lẻ. 25.000 đồng cho một tô bún với họ đâu phải số nhỏ”. Vậy là sau một thời gian ấp ủ, bả ngỏ ý với con gái là chị Trương Trần Như Ý (28 tuổi), và được ủng hộ hết mình. Nói là làm, bà Hồng ngay sau đó liền bắt tay vào việc, đưa “mô hình” bún treo vào vận hành, tất nhiên là có sự hỗ trợ của chị Như Ý trong việc truyền thông, kêu gọi ủng hộ và sắp xếp, cân bằng các suất “bún treo” mỗi ngày để duy trì được lâu dài.

Từ ngày bún treo hoạt động, có ngày bà Hồng treo đến 90 tô, nguồn quỹ chủ yếu từ những ân nhân là bạn bè, đồng nghiệp của con gái, những người ủng hộ qua trang mạng của quán và phần còn lại là những người qua đường. “Nhiều khi khách có nhã ý ghé treo bún thôi chứ không mua mang về”, theo bà Hồng.
Cho đời chút hương
Tiệm bún treo từ ngày khởi động đến nay luôn nhận được sự ủng hộ của bà con, ân nhân xa gần, dầu vậy, cũng không thiếu những giai đoạn khó khăn. Có lúc nguồn quỹ cho hoạt động này eo hẹp, người chủ quán phải cân đong lại các suất ăn, làm sao để ngày nào cũng có phần cho người nghèo. Hiện tại, một ngày bà treo từ 5-10 phần, “có lúc không ai treo, tôi cũng tự treo, gặp ngày bán buôn không thuận lợi thì cũng lỗ vốn chứ, nhưng thấy cô chú, anh chị có thêm được phần ăn trong ngày, tôi coi như lãi được niềm vui” - bà Hồng thiệt lòng.
Thật vậy, những người tìm đến quán bún này đa số là những người lao động chân tay, người già neo đơn, vô gia cư… Có những trường hợp nhận bún mỗi ngày, riết thành mối ruột. Bà Hồng ngoài việc tặng bún, còn nhớ luôn mặt từng người, từng hoàn cảnh, nhờ tranh thủ chuyện trò, thăm hỏi mỗi khi có người đến nhận phần ăn.

Ngồi trò chuyện với tôi một lúc, bà quay sang nhờ người chị gái đi gọi ông chú làm bảo vệ gần đó tới nhận bún. Khi hỏi ra mới hay, ngày nào ông cũng đến quán lấy phần ăn, hôm nay chưa thấy tới nên sốt ruột. Ông là Hồ Chiến Thắng (67 tuổi), quê ở Đồng Nai, làm bảo vệ, giờ rảnh thì chạy xe ôm để có thêm thu nhập. Ông Thắng không thuê trọ vì không đủ kinh phí trang trải. Bà Hồng cho biết ông hay ngủ ở mái hiên hoặc ghế đá ngoài lề đường. “Ngày nào tôi cũng nhận bún ở quán này, bà chủ cũng vui vẻ, tốt bụng lắm. Phần ăn ở đây cũng nhiều, buổi sáng tôi ăn một nửa, nửa còn lại để trưa ăn tiếp, tiết kiệm được một bữa” - ông Thắng tâm sự. Hay như trường hợp của bà Sáu, không con cái, chồng mất, sống một mình ở gần nhà thờ Bình An, sáng nào cũng đi bộ xuống quán bún bà Hồng nhận phần bún về dùng cho hai bữa. Bà Hồng nói còn nhiều hoàn cảnh cực cùng nữa. “Nhưng sức mình có hạn, cũng không biết làm sao, thôi thì giúp được ai thì giúp”, bà cảm thán.
Tôi hỏi bà về thời gian duy trì những phần ăn thiện nguyện này, bà nói chắc nịch: “Tôi xác định mình sẽ làm tới khi nào không còn sức nữa thì thôi, quán còn bán thì tôi còn treo, không ai treo mình cũng treo”. Những ngày quán có việc phải đóng cửa 1-2 ngày, bà Hồng bồn chồn lo không biết những “thân chủ”, những “mối ruột” của mình bữa đó sẽ ăn gì, no đói ra sao…
Chia tay bà Hồng, tôi cứ nhớ mãi hình ảnh người phụ nữ bên nồi nước nghi ngút khói, đôi tay chai sần, nước da ngăm, khuôn mặt hồn hậu và nụ cười gần gũi. Dù với ai, bà luôn đón tiếp với tất cả sự niềm nở, chân tình. Bà tâm đắc: “Làm việc bác ái không cần phải đi đâu xa xôi, bác ái là việc chìa tay ra với những ai đang khó khăn ở gần mình, là bà con chòm xóm, là những người ngay trước cửa nhà, cứ cho đi sẽ nhận lại được gấp trăm, đừng có sợ lỗ…”. Tôi thấy nơi ánh mắt, nụ cười lẫn những cử chỉ của bà toát lên một năng lượng ấm áp, phát xuất từ trái tim biết rung cảm và sự tinh tế khi nhìn thấy nhu cầu của những người xung quanh.
Anh Thư
Bình luận