LTS: Phan Khôi (1887-1959) là một nhà báo, nhà văn, rất nổi tiếng trong giới học thuật Việt Nam cách đây một thế kỷ. Ông cũng là một trong số những người tham gia dịch Kinh Thánh sang Việt ngữ cho anh em Tin Lành. Nhân 100 năm ngày bản in này ra đời, CGvDT xin giới thiệu bài viết của tác giả Phan Nam Sinh là con trai ông, gởi riêng cho báo CGvDT. Bài báo này xoay quanh câu chuyện kể về ảnh hưởng từ một quyển sách do người cha đồng dịch lên con trai, và những kỷ niệm xưa cũ được ghi lại, hoàn toàn không bàn về nội dung bản dịch. Xin giới thiệu cùng quý độc giả.
Năm 10 tuổi hay trên 10 tuổi, qua lời kể của các anh chị, tôi đã biết việc cha tôi - nhà văn, nhà báo Phan Khôi là một trong những người đã tham gia dịch Kinh Thánh cho Hội Thánh Tin Lành Anh quốc. Ấy vậy mà mãi cho đến năm 16 tuổi, tức năm 1956, khi tập kết ra Bắc, tôi mới được thấy và đọc cuốn Kinh Thánh mà cha tôi là người đã tham gia dịch sang Việt ngữ.
Vào một buổi trưa mùa hè, khi tôi từ Trường Học sinh miền Nam số 8, đóng tại làng Dương Liễu, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông về thăm cha mẹ tại số nhà 51 đại lộ Trần Hưng Đạo, Hà Nội, nơi vua Bảo Đại nghỉ lại mỗi lần công du hoặc vi hành ra Bắc. Lúc thấy tôi cầm cuốn Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước do Société Biblique Britannique Et Étrangère in và phát hành tại ShangHai năm 1925 lên xem, cha tôi đã nói với tôi: “Nếu sau này đi theo con đường văn chương thì cuốn sách đầu tiên con cần đọc là Kinh Thánh”. Đó chính là câu nói đầu tiên tôi nghe được từ cha tôi về cuốn sách nổi tiếng khắp thế giới này, và tôi còn nhớ mãi tới tận bây giờ.
Dưới đây, tôi xin phép được kể lại vắn tắt một vài kỷ niệm của riêng tôi chung quanh cuốn Kinh Thánh, này mà có lẽ rất ít ai còn giữ được tới ngày nay.
1.
Phải nói ngay rằng, cuốn Kinh Thánh thấy trong tủ sách của cha tôi mà tôi đang giữ chắc chắn không phải là cuốn cha tôi được Hiệp hội Tin lành Anh quốc tặng hay ông mua hồi mới dịch và in xong. Bởi, hồi đầu tháng 7 năm 1946, khi được mời ra Hà Nội dự Hội nghị văn hóa toàn quốc, theo lời các anh chị tôi, cha tôi chỉ mang theo mấy bộ quần áo dùng hằng ngày, không mang theo bất cứ một thứ sách báo nào cả. Thậm chí, khi người Pháp mở rộng chiến tranh đến quê tôi - làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam - tôi còn thấy hai mẹ và các anh chị tôi đem cả cái thư viện đồ sộ của cha tôi bỏ vào những chiếc chum to, có khi có cả cuốn Kinh Thánh ông được tặng hay mua, chôn ngoài vườn lá dong phía sau nhà. Vả lại, trong cuốn Kinh Thánh tôi đang giữ tuy có nhiều bút tích, khi gạch chân, khi viết bằng chữ, lúc bút chì, lúc mực xanh, mực đỏ…, nhưng tuyệt nhiên không hề có bút tích nào là của cha tôi cả.
Vậy thì cuốn Kinh Thánh của cha tôi mà tôi đang giữ là của ai và vì sao nó lại có trong tủ sách của cha một thời gian dài làm vậy? Đã có lúc tôi đồ rằng có thể là do ông mượn từ thư viện hay của một Hội Thánh Tin Lành nào đó tại Hà Nội. Nhưng nếu nó là của thư viện thì sao không thấy có mã số và con dấu của đơn vị chủ quản? Vậy thì có nhiều khả năng là của một ai đó hay của một mục sư Tin Lành nào đó biếu ông, sau tháng 10 năm 1954, hồi ông từ chiến khu Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội.
2.
Cuốn Kinh Thánh này phần chính văn có 1397 trang, khổ 13cmx20cm; trong đó phần Cựu Ước 1070 trang, phần Tân Ước 327 trang. Nguyên gáy sách và bìa sách hồi mới được xuất bản thế nào tôi không rõ, nhưng từ lúc thấy trong tủ sách của cha tôi thì gáy đã bị bong tróc, bìa được bọc bằng một thứ vải màu xám đen, trang 5 bìa trong (không đánh số) có dòng chữ In lần thứ hai do Société Biblique Britannique Et Étrangère in và phát hành tại ShangHai, như đã nói ở phần đầu bài này.
Nhân một lần đọc báo Thanh Niên số Xuân Nhâm Thìn, thấy nói hồi ký của William C.Cadman cho hay: “Hội Thánh Kinh Anh quốc xuất bản Kinh Thánh Tân Ước tại Hà Nội năm 1923 và toàn bộ Kinh Thánh được xuất bản tại Thượng Hải vào năm 1925”. Dầu vậy, theo nhiều tài liệu do chính Phan Khôi viết ra thì ông bắt đầu dịch Kinh Thánh từ đầu năm 1921, mãi 5 năm sau, tức năm 1925 mới dịch xong toàn bộ. Thế thì sao năm 1925 đã có sách in, mà lại là “in lần thứ hai”? Lẽ nào năm 1923, khi chỉ in Tân Ước tại Hà Nội thì gọi là “in lần thứ nhất”, và khi in cả Cựu Ước lẫn Tân Ước tại Thượng Hải thì gọi là “in lần thứ hai”, như lời mục sư William C. Cadman? Hay là có một sự nhầm lẫn về năm xuất bản?
3.
Trong một số tài liệu, Phan Khôi cho biết ông đã tham gia dịch toàn bộ phần Tân Ước và 1/3 Cựu Ước nhưng lại không cho biết cụ thể là ông đã dịch những sách nào. Điều đó đã gây ra không ít băn khoăn cho người đọc, nhất là với những ai muốn biết tường tận việc này.
Theo tìm hiểu của tôi, 1/3 Cựu Ước mà Phan Khôi dịch chắc chắn phải là toàn bộ các sách về văn thơ, bao gồm các sách Gióp, Thi thiên, Châm ngôn, Truyền đạo, Nhã ca. Sở dĩ mạnh dạn nói như thế là vì khi đọc các sách này trong bản Kinh Thánh Việt ngữ, người đọc không khó để nhận ra chất giọng của Phan Khôi, đặc biệt là thứ giọng Quảng rất riêng, khó mà lẫn lộn với ai của ông.
Thử làm một bảng thống kê nho nhỏ thì thấy Gióp có 42 trang, từ trang 594 tới trang 636; Thi thiên có 106 trang, từ trang 637 tới trang 743; Châm ngôn có 35 trang, từ trang 744 tới trang 779; Truyền đạo có 9 trang, từ trang 780 tới trang 789; Nhã ca có 7 trang, từ trang 790 tới trang 797, cộng lại cũng chỉ mới có 199 trang. Đem so với toàn bộ Cựu Ước 1070 trang, thì năm sách này cũng chỉ chiếm gần 1/5. Như vậy, rất có thể là ngoài các sách về văn thơ nói trên, Phan Khôi còn tham gia dịch các sách khác nữa của phần Cựu Ước. Có điều, chằng thể nào phân định rạch ròi là thêm phần nào, bởi đây là công trình tập thể của khá nhiều người, nhiều quốc tịch khác nhau, lại cách chúng ta ngày nay hơn một thế kỷ.
4.
Tôi thuộc lòng bài thơ Tình già của cha tôi từ khi còn rất nhỏ, nhưng mãi tới năm 1956, khi ở miền Bắc, tôi mới được đọc Tình già, bản chép tay do chính cha tôi chép lại từ tờ Phụ nữ tân văn ông mượn về từ một thư viện ở Hà Nội. Hồi ấy, tôi chỉ biết đó là bài thơ mở đầu cho phong trào thơ mới sẽ nở rộ và đạt được nhiều thành tựu rực rỡ vào mười năm sau, với những Mấy vần thơ của Thế Lữ (1935), Tiếng thu của Lưu Trọng Lư (1937), Điêu tàn của Chế Lan Viên (1937), Thơ thơ của Xuân Diệu (1938), Lửa thiêng của Huy Cận (1940). Ngoài ra không biết gì khác, cũng không hề có suy nghĩ hay nghi ngờ gì khác, ngoài những điều đã nói ở trên cả.
Mãi một thời gian dài sau đó, nhờ nhiều lần đọc Kinh Thánh, tôi mới dần dần nhận ra, hình như là có một mối liên hệ nào đó giữa bài thơ Tình già của cha tôi và việc ông dịch Kinh Thánh. Cho tới gần đây thì tôi tin rằng chính việc dịch Kinh Thánh, nhất là Thi thiên và Nhã ca là một trong trong những gợi ý để cha tôi suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo nên một lối thơ mới, khác hẳn với các thể thơ truyền thống của dân tộc, hầu đáp ứng cho việc miêu tả, diễn đạt những suy nghĩ, cảm xúc ngày càng phong phú, tinh vi của con người thời hiện đại. Những gợi ý đó, theo tôi, trước hết là về mặt đề tài, sau đó là thể thơ. Nếu như các sách Thi thiên và Nhã ca thường là những dòng thơ nói về tình yêu lứa đôi, thì Tình già, bài thơ tình được công bố đầu tiên và có lẽ là duy nhất của ông cũng nói về tình yêu, có khác chăng là thứ tình yêu dang dở của đôi nam nữ tình cờ gặp lại nhau sau hai mươi bốn năm, lúc cả hai đều đã ở vào tuổi xế chiều. Nói về thể thơ thì Thi thiên hay Nhã ca trong Kinh Thánh Việt ngữ xứng đáng được gọi là thơ như trong Tình già. Cũng câu dài, câu ngắn xen kẽ nhau, có khác chăng chỉ là Tình già của Phan Khôi có vần, còn Thi thiên và Nhã ca trong Kinh Thánh Việt ngữ thì không vần. Điều suy đoán trên của tôi dần dần và cho tới nay đã trở thành như một niềm tin. Thậm chí, đã có lúc tôi toan viết thành bài để công bố, nhưng rồi phải dừng lại vì không tìm đâu ra được thêm tư liệu, chứng cứ đủ sức thuyết phục hơn nữa.
5.
Một điều rất khó hiểu đối với tôi là vì sao ông bà William C. Cadman lại mời cha tôi tham gia dịch Kinh Thánh nhưng chủ yếu là dịch từ bản tiếng Pháp, có đối chiếu với bản Hán văn? Bởi theo tôi biết, vốn chữ Pháp mà cha tôi có được, phần nhiều là do tự học. Trong khi đó, không ít người cùng thời với Phan Khôi, được đào tạo qua trường lớp hẳn hoi, có người còn được du học bên Pháp. Trình độ tiếng Pháp của những người này nếu không hơn hẳn Phan Khôi thì cũng chẳng thua kém gì ông. Còn về trình độ Hán học thì cha tôi chỉ mới có bằng Tú tài nho học tại kỳ thi Hương trường thi Thừa Thiên - Huế, năm 1906; trong khi còn bao nhiêu là Tiến sĩ, Cử nhân đương thời. Tôi đồ rằng, có thể khả năng ngôn ngữ của Phan Khôi đã được kiểm chứng trong thời gian ngắn ông làm trợ bút cho tạp chí Nam phong của Phạm Quỳnh từ năm 1917 đến năm 1918, và người ta tin đủ để tham gia việc dịch Kinh Thánh mà không sợ sai sót. Bởi trong thời gian này, ngoài những bài thơ luật Đường viết bằng chữ Hán, hai đoản thiên tiểu thuyết là Hoạn hải ba đào và Mộng trung mộng cũng bằng chữ Hán, Phan Khôi còn cho đăng nhiều kỳ cả những bài luận thuyết bằng chữ Hán như Luận Nam quốc bách niên lai học thuật chi biến thiên cập hiện thời chi cải lương phương pháp (Luận về những biến thiên trong một trăm năm nay của học thuật nước Nam và phương pháp cải lương hiện thời). Cùng với đó là Ngự sử đàn văn phê phán, chấn chỉnh những lỗi về cách dùng từ, cách đặt câu văn tiếng Việt trên sách báo lúc bấy giờ, với lời văn chắc nịch, gãy gọn, khi nghiêm túc, khi hài hước, cho thấy tri thức uyên bác, lối suy nghĩ độc lập của ông. Rồi với Hán văn độc tu, dạy cách tự học chữ Hán theo phương pháp mới, có so sánh, đối chiếu với ngữ pháp tiếng Pháp, càng cho thấy trình độ Pháp văn, Hoa văn vững vàng và phương pháp nghiên cứu khoa học, cung cách làm việc tỉ mỉ, cẩn trọng của Phan Khôi. Sự chọn lựa của ông bà C. Cadman tỏ ra là chính xác, vì cho đến nay, sau 100 năm, Kinh Thánh Việt ngữ năm 1925 mà Phan Khôi là một trong số các dịch giả vẫn được nhiều người Tin Lành mến mộ, trong đó có cả các mục sư, xem đó là bản dịch tốt nhất.
6.
Lưu giữ được nguyên trạng Kinh Thánh Việt ngữ như hồi có trong tủ sách của cha tôi, không rách một tờ, không mất một trang, phải nói là một kỳ công. Kỳ công này, trước hết thuộc về mẹ tôi, bà Nguyễn Thị Huệ. Nhớ khi cha tôi qua đời tại số nhà 73 Phố Thuốc Bắc, Hà Nội, mẹ tôi đã dồn toàn bộ các bài viết, bản dịch của ông vào trong hai chiếc vali ông mang về lúc sang Trung Quốc dự Đại hội kỷ niệm 20 năm ngày Lỗ Tấn qua đời. Chiếc nhỏ, đựng các bài viết, bản dịch và các cuốn sổ tay ghi chép ở Việt Bắc, đặt trên nóc chiếc tủ quần áo. Chiếc to, đựng các bộ sách như Tư trị thông giám, Lỗ Tấn toàn tập và cả cuốn Kinh Thánh Việt ngữ. Vì tất cả quá nặng, một mình mẹ tôi không thể bê được, bà đành phải đặt phía dưới gầm giường bà nằm. Đó là chưa nói đến những vất vả, khó nhọc mỗi lần chuyển nhà, hay phải sơ tán về vùng nông thôn để tránh bom đạn Mỹ, mẹ tôi đều không quên mang theo sách của cha tôi để thỉnh thoảng đem ra phơi, tránh mối mọt, ẩm ướt. Nghe bà kề hồi ở gác tư, 96 Phố Huế, Hà Nội, có lần bà phải một mình khệ nệ ôm chồng sách nặng trịch, trong có Kinh Thánh Việt ngữ, leo cầu thang dốc đứng để lên sân thượng phơi sách của cha tôi mà tôi không khỏi rơi nước mắt, cảm phục...
Phan Nam Sinh
Bình luận