Nếu nói sông nước là “đặc sản” của đất miền Tây, thì ghe xuồng gỗ chính là một thứ “gia vị” không thể bỏ qua. Từ xa xưa, ở huyện Phụng Hiệp thuộc tỉnh Hậu Giang đã tồn tại làng nghề tạo ra thứ gia vị độc đáo này. Sản phẩm nơi đây được phân phối đi khắp xứ, làm nên thương hiệu ghe xuồng miền Tây nức tiếng. Thế nhưng, từ sau cuộc soán ngôi ngoạn mục của những chiếc ghe, xuồng, tàu làm bằng chất liệu composite, xuồng ghe truyền thống bước vào thời kỳ lao đao…
|
Ở Phụng Hiệp giờ chỉ còn vài người thợ đóng ghe xuồng truyền thống |
Nhộn nhịp xuồng ghe Phụng Hiệp
Về miền Tây, ăn hết các món, đi khắp các nơi mà chưa trải cảm giác “ghe xuồng trên sông” là coi như đã bỏ lỡ một mảng văn hóa vùng miền đặc sắc. Phụng Hiệp, như nhiều nơi khác ở đồng bằng Sông Cửu Long, cũng có nhiều con sông, tạo “đất” cho ghe xuồng mặc sức “tung hoành”.
Làng nghề ghe xuồng ở Phụng Hiệp đã có trên 40 năm, trên địa bàn xã Long Thạnh và khu Doi Cát của thị xã Ngã Bảy. Dân ở đây kể lại, thời kỳ “hoàng kim”, nơi cầu Phụng Hiệp (bây giờ là cầu Ngã Bảy thuộc thị xã Ngã Bảy) nhìn xuống sẽ thấy một xóm trải đầy xuồng ghe. Tiếng đóng, cưa, bào... từ các nhà làm nghề vang ra không lúc nào ngớt. Làng nghề Phụng Hiệp nổi tiếng với ghe xuồng đủ loại như ghe bầu, ghe tam bản, xuồng ba lá, năm lá... Mỗi loại tùy kích thước, kết cấu mà đáp ứng cho từng nhu cầu khác nhau. Xuồng ghe được phân phối đi các tỉnh, dùng làm phương tiện di chuyển, chuyên chở và trao đổi hàng hóa trên sông. “Ghe lớn dùng để chở hàng hóa, buôn bán trên sông. Loại nhỏ dùng để di chuyển. ‘Hạn sử dụng’ của nó cũng tùy mình dùng vào việc gì. Ví dụ như chở nông sản khoảng 3 – 4 năm một chiếc, chở thức ăn cho cá chỉ dùng được 1 năm”, ông Nguyễn Văn Be, một trong những thợ đóng ghe xuồng còn lại của khu Doi Cát chia sẻ. Theo ông Be, nhiều nơi nuôi cá số lượng lớn thường đặt ghe xuồng ở đây dùng vào việc chở thức ăn cho cá. Trong những lúc cho cá ăn, mầm bệnh có thể đã nằm ở mé ngoài ghe nên chỉ dùng được một mùa là bắt buộc phải bỏ đi.
|
Bộ khung của một chiếc tàu lớn |
Một chiếc ghe, chiếc xuồng “bảnh bao” trôi trên sông trước đó đều là những khúc gỗ thô chưa thành hình. Qua bàn tay của người thợ, nó bỗng chốc trở nên có ích. Đóng ghe xuồng không phải là việc dễ dàng. Từ giai đoạn chọn được loại gỗ ưng ý đến cưa cây gỗ, đi vào đóng ráp chi tiết (gác liếp, làm giàn đà, đóng giàn cong, xây chậu lái...) thợ không lúc nào được lơ là. Các công đoạn giống như từng mắt xích để hoàn thiện sản phẩm, thiếu đi hay sơ suất ở công đoạn nào là coi như hỏng. Gỗ sử dụng bao gồm các loại như mù u, sao, còng,... tùy theo tốt xấu mà ghe xuồng dùng được lâu hay mau. Mỗi người thợ trung bình cứ ba ngày đóng được một chiếc xuồng với tiền công khoảng từ 800.000đ – 1.000.000đ/chiếc.
|
Người thợ miệt mài với công việc truyền thống |
Những năm gần đây, khi ghe xuồng composite xuất hiện, thợ làng nghề Phụng Hiệp lâm dần vào tình trạng vô công rỗi nghề, đành chuyển dần sang nghề khác. Họ đi làm thuê, làm mướn linh tinh tại chỗ hoặc rời đi nơi khác làm ăn. Cả một vùng ghe xuồng của Phụng Hiệp thuở xưa bỗng chốc thưa đi tiếng quen tai của dụng cụ đóng vào những thớ gỗ. Ngày nay, trên những nhánh sông, ghe xuồng truyền thống dần bị thay thế bởi những xuồng ghe composite hiện đại.
Ký ức của những dòng sông
Thời điểm hiện tại, thị xã Ngã Bảy chỉ còn vài ba hộ đóng ghe xuồng. Ở Long Thạnh, làng nghề tuy còn giữ được nhiều gia đình gắn bó hơn cả nhưng thu nhập không sung túc như lúc trước nữa. “Mua cây 500.000đ thì phải đóng ra được chiếc ghe cỡ 1.000.000đ/chiếc. Mà đóng một ngày một bữa dễ gì xong được. Ngày xưa buôn được bán được thì còn đỡ, bây giờ khách mua vơi dần, muốn bám nghề hoài cũng không được”, anh Phan Văn Giàu, thợ cũ của làng ghe xuồng cho biết. Có một sự trùng hợp vừa hài hước vừa xót xa là đi dọc làng nghề ở một vài nơi, hễ gặp được chỗ đóng ghe xuồng truyền thống là y như rằng đối diện hay thậm chí kế bên có một cơ sở ghe xuồng composite. Những chiếc xuồng mới, màu sắc tươi vui “nghiễm nhiên” di chuyển trên con sông cũ, là “địa bàn” bao đời của ghe xuồng truyền thống. Thợ ở trong vùng nhận xét, ghe xuồng được làm bằng chất liệu cũ hay mới đều có những ưu và khuyết điểm riêng của nó. Với vật liệu là gỗ, xuồng ghe đóng ra tuy nặng nhưng bền, có thể sử dụng nhiều năm. Trong khi đó, ghe xuồng composite được ưa chuộng là do nó nhẹ, dễ di chuyển, dù thường xuyên bị lắc và nếu đụng phải vật cứng sẽ rất dễ lủng. Vì có ưu mà cũng có khuyết nên cái mới tuy “chiếm sân”, nhưng vẫn chưa đánh bại được hoàn toàn cái cũ. Đây đó trên những dòng sông vẫn còn thưa thớt bóng dáng ghe xuồng từ cây gỗ.
|
Một góc của xưởng đóng ghe xuồng con sót lại ở Ngã Bảy |
Thợ làng ghe xuồng Phụng Hiệp đa số là thợ nhà. Học nghề từ cha ông rồi tự làm thợ cho “xưởng nhỏ” nhà mình. Có người rành các công đoạn làm xuồng ghe như rành sáu câu vọng cổ, cũng có người chỉ làm duy nhất một đoạn nhỏ như xảm trét nhưng vẫn gắn bó với nghề đến nay. Ông Đặng Văn Lợi, thợ ở Long Thạnh tâm sự: “Nhà tôi từ ghe xuồng người ta đặt làm không kịp phải mướn thợ phụ đến giờ chỉ còn mình tôi. Đóng “mình ên” mấy ngày mới xong cái xuồng nhỏ. Nhiều khi nhìn vụn gỗ dăm bào trên sàn, nghĩ tới cảnh xưa cũng thấy buồn buồn. Mà thôi kệ, cái gì cũng có thời của nó. Nghề cũng vậy thôi”.
Không chừng vài năm sau nữa, khách đến Phụng Hiệp không còn trông thấy bất kỳ một xưởng ghe xuồng truyền thống nào nữa, thay vào đó là các hộ chuyên sản xuất ghe composite. Cũng có khi điều ngược lại sẽ xảy ra, trả lại cho Phụng Hiệp một thời tưởng như đã mất. Nhưng đó là chuyện của tương lai, hiện tại nhà làm nghề đang dần dần mất đi. Ghe xuồng gỗ ít ỏi vẫn cứ trôi ở đâu đó, mang bóng dáng của ngày cũ, gieo vào lòng sông muôn nỗi nhớ thương.
Thiên Lý
Bình luận