Từ sự tình cờ vào thuở nhỏ, cha Léon Abel Provancher đã say mê khám phá vạn vật và được vinh danh là người khởi đầu cho ngành lịch sử tự nhiên ở Canada.
Cha Léon Abel Provancher sinh ngày 10.3.1820 ở thị trấn Bécancour, thuộc tỉnh bang Quebec và qua đời ngày 23.31892 ở Cap-Rouge, cùng tỉnh bang. Bên cạnh sứ vụ của một linh mục cha chánh xứ, cha đã có nhiều đóng góp quan trọng cho khoa học và được vinh danh là “cha đẻ ngành lịch sử tự nhiên của Canada”.
Có duyên với học bổng và giải thưởng
Niềm đam mê về khoa học tự nhiên của vị linh mục bắt đầu manh nha trong những năm tháng thời thơ ấu, hay nói đúng hơn là từ lúc cậu bé Léon Abel Provancher nhìn thấy một vỏ sò hóa thạch được công nhân tìm được trong quá trình đào giếng. Sau đó, Provancher thích thú học tên của những loài thực vật. Năm 1834 (lúc 14 tuổi), cậu bé giành được học bổng, cho phép nhập học ở Tiểu Chủng viện Nicolet của Quebec. Thậm chí ở độ tuổi này, kiến thức liên quan lĩnh vực thực vật học và nông nghiệp của Provancher cũng đã mang về nhiều giải thưởng cho cậu suốt thời gian học tập tại đây.
Tiếp tục theo ơn gọi, đến năm 24 tuổi, tức vào năm 1844, vị chủng sinh trẻ được truyền chức linh mục. Trong vòng 4 năm kế tiếp, ngài đã phục vụ ở nhiều xứ đạo. Năm 1848, cha tiếp tục bắt tay vào lĩnh vực trồng trọt. Việc lui tới nhiều giáo xứ khác nhau cho phép vị linh mục nghiên cứu hệ thực vật và động vật của Canada. Tháng 9.1854, cha Provancher trở thành cha sở giáo xứ Saint Joachim, và ngài trải qua 8 năm tại đây, lâu hơn nhiều so với thời gian ở những giáo xứ trước đó. Cha đổ công sức bồi đắp cho giáo xứ Saint Joachim và thử nhiều cách để tìm ra những nguồn thu mới cho giáo dân.
Năm 1857, lấy bút danh Émilien Dupont, cha hoàn thành quyển Essai sur les insectes et les maladies qui affectent le blé (tạm dịch: Tiểu luận về các loài côn trùng và những bệnh ảnh hưởng đến lúa mì). Đây là quyển sách dùng để tham gia cuộc thi do chính phủ tài trợ với hy vọng có thể tìm ra giải pháp cho vấn đề liên quan đến một loại ruồi gây ảnh hưởng đến hoa màu của những người nông dân địa phương. Cha Provancher đoạt giải ba trong cuộc thi này.
Cha đích thân khám phá và mô tả hơn 1.000 loài trước đây chưa từng được biết đến |
Nghiên cứu sâu về khoa học tự nhiên
Năm 1858 cha xuất bản Traité élémentaire de botanique (Chuyên luận cơ bản về thực vật học), quyển sách đầu tiên thuộc dạng này ở Canada. Sách được các viện giáo dục sử dụng cho công tác giảng dạy suốt nhiều năm, cho đến khi xuất hiện các quyển sách như Éléments de botanique et de physiologie végétale (Khái luận về thực vật học và sinh lý học thực vật) của Louis-Ovide Brunet (Quebec, 1870) và Cours élémentaire de botanique et Flore du Canada (Giáo trình cơ bản về thực vật và hệ thực vật của Canada) của Jean Moyen (Montreal, 1871). Năm 1861, vị linh mục hội ngộ ông Brunet, giáo sư ngành thực vật học của Đại học Laval, và cùng nhau, hai người thu thập các mẫu cây trên khắp lãnh thổ Canada. Đến thời điểm này, cha Provancher bắt đầu quan tâm đến những loài côn trùng ký sinh trong vườn nhà xứ. Thế là cha chuyển sang nghiên cứu ngành côn trùng học với ông William Couper, nhà côn trùng học người Mỹ và nhà tự nhiên học có ảnh hưởng lớn tại Canada vào nửa cuối thế kỷ 19. Thậm chí vị linh mục còn nhờ gởi sách từ New York và Washington đến Quebec để phục vụ cho việc học tập.
Năm 1862, cha Provancher rời giáo xứ Saint-Joachim và sang phục vụ ở giáo xứ Notre-Dame-de-Portneuf. Trước khi từ giã giáo xứ cũ, cha tạo nên vườn ươm dành cho cây ăn trái để làm hình mẫu cho nông dân địa phương, cũng như mang đến những sự trợ giúp khác. Cùng năm, cha công bố quyển sách tựa đề Le verger canadien (Vườn cây Canada), về hoa lan Canada và những thông tin cần thiết để nuôi trồng giống hoa này. Tiếp tục trong năm 1862, ngài nhận được khoản hỗ trợ tài chính từ chính phủ để hoàn thành công trình về các loài hoa của Canada. Năm 1868, cha Provancher phát hành chuyên san Le Naturaliste canadien (Nhà Tự nhiên học Canada) để tạo điều kiện cho các nhà khoa học chưa có tên tuổi công bố những phát hiện của họ, và từ đó khuyến khích những người nghiệp dư nghiên cứu về tự nhiên học.
Những năm sau, theo lời khuyên của Đức Tổng Giám mục Quebec, cha Provancher rời sứ vụ linh mục chánh xứ và tập trung vào việc nghiên cứu chuyên sâu về khoa học tự nhiên. Thế là cha di chuyển khắp Canada và lên đường đến Mỹ, châu Âu và Đất Thánh. Ngài tổ chức hai chuyến hành hương đến Jerusalem, với một chuyến do cha đích thân hướng dẫn.
Đến năm 1874, vị linh mục bắt đầu xuất bản Petite faune entomologique du Canada (Hệ động vật côn trùng của Canada), một dự án khổng lồ về nghiên cứu côn trùng nhỏ của Canada. Ban đầu công trình chỉ xuất hiện trên chuyên san Le Naturaliste canadien, và theo thời gian được hiệu đính, mở rộng và cuối cùng trở thành tuyển tập 3 quyển về mọi loài côn trùng từng được biết đến ở Canada vào thời điểm đó. Hệ động vật côn trùng của Canada trong một thời gian dài trở thành công trình có giá trị vô song về côn trùng học tại nước này.
Chính nhờ vào việc tìm hiểu và mô tả về bộ côn trùng bao gồm ong bắp cày và ong, cha Provencher mang đến sự đóng góp to lớn cho nỗ lực vì tiến bộ trong khoa học. Thay vì tổng hợp thông tin từ các nguồn khác như đã làm trước đây, ngài đích thân khám phá và mô tả hơn 1.000 loài trước đây chưa từng được biết đến. Một mình cha đã tìm được 1/10 các loài thuộc bộ cánh màng hiện được biết đến ở Canada. Nhờ vào sự đóng góp lớn lao cho khoa học, cha khẳng định được tên tuổi vững chắc và không thể thay thế được trong lịch sử ngành tự nhiên học của Canada.
GIANG VÔ YÊN
Bình luận