Ngày 11.6.2017,cộng đoàn Lòng Thương xót ở Erdenet, cách thủ đô Ulanbato (Mông Cổ) 380 cây số về hướng bắc đã được ĐGM Wenceslao S. Padilla, Phủ doãn Tông tòa tại Ulanbato nâng lên hàng giáo xứ. Một sự kiện khác, có lẽ nhiều người còn nhớ, là cách nay gần 1 năm, ngày 28.8.2016, chaJoseph Enkhee-Baatar, 29 tuổi, đã được phong chức, trở thành vị linh mục đầu tiên của đất nước Mông Cổ. Những sự kiện này như những ánh sao Tin Mừng soi chiếu nơi vùng truyền giáo phương Đông và gợi cho tín hữu khắp nơi suy tưởng về công cuộc truyền giáo.
Giáo hội Mông Cổ, chỉ mới được tái lập năm 1992, hiện có khoảng 1.300 tín hữu Công giáo,và là một thành phần của Kitô giáo bên cạnh các giáo hữu Chính Thống và Tin Lành, với tỷ lệ khoảng 2% tổng số dân, trong đó Công giáo là 0,04%; Mông Cổ hiện có 6 giáo xứ và một số cộng đoàn nhỏ. Công cuộc truyền giáo ở một đất nước rộng lớn, với diện tích trên 1,5 triệu km2 và khoảng 3 triệu dân, được trao cho 20 vị thừa sai và 50 nữ tu của 12 hội dòng, trong đó có một số linh mục, tu sĩ Việt Nam.
Cộng đoàn tín hữu Erdenet |
Tân giáo xứ Lòng Thương Xót chỉ mới khai sinh từ năm 2013 với ba giáo hữu ban đầu.Dần dần, cộng đoàn gia tăng, bởi những giáo hữu này đã mang các bạn bè, thân nhân, người quen đến. Từ năm 2015, cộng đoàn hội họp mỗi Chúa nhật và từ đó nảy sinh ý muốn phát triển lên giáo xứ và nay đã thành hiện thực.
Còn linh mụcJoseph Enkhee-Batar, từng bày tỏ ý định đi tu với thân mẫu, mặc dù ban đầu người mẹ không đồng tình, sau khi tốt nghiệp ngành công nghệ sinh học, đã gia nhập một chủng viện tại Hàn Quốc.
Giáo hội Mông Cổ được tái lập và số tín hữu ngày càng gia tăng là thành quả dựa trên sự hợp lực của các vị thừa sai, các giáo hữu nhiệt tâm đón nhận và thể hiện Tin Mừng trong cuộc sống. Cha Joseph Enkhee-Baatar đã có lần chia sẻ: “Con đường phải đi đã được Đức Bênêđictô XVI vạch sẵn: không phải thuyết phục rằng Tin Mừng có thật, nhưng là sống trong chân lý Tin Mừng mỗi ngày. Và như thế mọi sự trở nên cuốn hút” (x. CGvDT 2060, trang 26).
Đường hướng mục vụ này thực ra đã hình thành từ lâu trong Giáo hội Công giáo. Gần đây nhất, Chân phước Giáo Hoàng Phaolô 6 từng nhắn nhủ: “Thế giới ngày nay cần chứng nhân hơn thầy giảng”. Và quả thực, đường hướng này chưa bao giờ lỗi thời.
Công cuộc truyền giảng Tin Mừng trên quê hương Việt Nam ngày xưa cũng nhờ những chứng nhân thừa sai và chứng từ của những tín hữu bản địa ban đầu. Các vị tiền nhân ngày đó, sống yêu thương nhau, cống hiến và phục vụ tha nhân, được cộng đồng dân cư nhìn nhận đạo mà họ tin theo là “đạo yêu thương”.
Ngày nay, nơi các giáo điểm vùng sâu vùng xa hoặc ngay trong lòng phố thị, yêu thương vẫn là cách sống, cung cách mục vụ đồng nhất với Tin Mừng, có sức lay động tình cảm và niềm tin của mọi người. Những chứng từ nơi Giáo hội Mông Cổ, của Mẹ Thánh Têrêsa nơi thị thành, của những người dấn thân nơi vùng ngoại biên chăm lo cho đồng bào thiểu số, người cùng khổ, mồ côi, khuyết tật, tị nạn, vô gia cư… ở khắp nơi vẫn chưa bao giờ vơi ý nghĩa.
Và ánh sao phương Đông, cùng với những ánh sao trên khắp các vùng miền đang chiếu rọi trần gian, vẫn ấp ủ lời mời gọi các tín hữu “Sống trong chân lý Tin Mừng mỗi ngày”.
HOÀNG ANH
Bình luận