1.
Pascha, theo nguyên nghĩa, là “Vượt qua”, một lễ hội diễn ra vào mùa Xuân, chung cho cả tín đồ Do Thái lẫn các cộng đoàn Kitô giáo. Theo đó, hằng năm cứ vào độ trăng tròn mỗi buổi đầu Xuân, người Do Thái có thói quen chọn những con vật “đầu đàn”, những hoa trái tinh tuyển “đầu mùa” cùng với bánh không men, làm của lễ tiến dâng, để cảm tạ Thiên Chúa. Tục lệ trên được lưu truyền, nhằm ghi dấu cuộc xuất hành của Dân Chúa ra khỏi Ai Cập, thoát xiềng xích nô lệ của tập đoàn Pharaon, băng qua Biển Đỏ để vào miền đất hứa Canaan. Lễ Pascha của người Do Thái khởi đầu từ lúc mặt trời lặn vào buổi chiều ngày 15 tháng Nisan. Riêng “Tuần Thánh” của Kitô giáo - với ý nghĩa khơi gợi những chặng đường thập tự, cứu độ của Chúa - được cử hành bằng nhiều nghi thức long trọng và bi tráng: Từ cuộc “rước lá”, từ việc “rửa chân các môn đệ” cho đến “tiệc chiên”, giờ Chúa hấp hối trên đồi Calvaire và kết thúc là mầu nhiệm Phục Sinh.
Tuy nhiên, ở mỗi nơi mỗi thời, tùy theo điều kiện lịch sử, địa dư và phong tục tập quán, lễ Pascha được phong phú và đa dạng hóa, kể cả việc thêm thắt hội nhập một số tình tiết sắc màu đậm đà, sinh động của một lễ hội dân gian. Chẳng hạn, người theo Chính Thống giáo có một tục lệ ăn mừng lễ Phục Sinh rất ngộ. Số là, sau phần nghi lễ, người ta làm phép những quả trứng và chia cho mọi người, như là họ được chia sẻ phúc lành của ngày đại lễ. Sau đó, người ta chúc mừng nhau và cùng nhau đập quả trứng. Khi trứng vỡ, mọi người cùng kêu lên: “Đức Kitô đã Phục Sinh!”. Những người khác đáp lại: “Người đã sống lại thật”. Người ta cũng thường viết lời chúc mừng trên quả trứng và gởi cho những người họ thương mến. Tại sao quả trứng mang biểu tượng của lễ hội Pascha? Theo tạp chí Réponse à Tout, người La Mã kể rằng Simon de Cyrène - ông già vác đỡ thánh giá Chúa Giêsu trên đường lên núi Sọ - đã từng là người làm nghề buôn bán trứng. Sau khi Chúa bị đóng đinh, ông buồn bã trở về, thấy những quả trứng gà ở nhà mình bỗng dưng chuyển ra đủ sắc màu rực rỡ như là cầu vồng trên trời: đỏ, cam, vàng, xanh, lam, chàm, tím. Về sau, tục lệ này đã hình thành một nghệ thuật dân gian truyền thống với những quy luật và ý nghĩa tượng trưng. Hiện nay bên Âu Mỹ vẫn thịnh hành một dịch vụ vẽ hình ảnh Chúa, Đức Mẹ và các thánh trên mặt vỏ trứng. Việc đập vỡ quả trứng gợi ý việc mở cửa mồ của Chúa Giêsu Kitô. Quả trứng chỉ sự sống mới. Trong quả trứng sẵn có chất liệu của một sinh thể làm nên con gà nhỏ tí, mới mẻ và sự sống mới bắt đầu khi con gà phá vỏ trứng chui ra ngoài, để góp phần vào thế giới của muôn loài.
Còn ở Việt Nam ta, một Giáo hội ở Phương Đông trẻ trung, Pascha đúng là một “tuần đại phúc”, vừa thánh thiêng của một phụng vụ kinh điển (Lễ) lại vừa gần gặn với sinh hoạt mang tính “mùa vụ” (Hội) của những nhà thờ - xứ đạo nơi làng xã nông nghiệp chân quê. Thực tế là người “bên đạo” đã “dọn mình” để “ăn mừng” và để sống các ý nghĩa tinh thần ấy ngay từ Thứ Tư Lễ Tro, xuyên suốt tới Tuần Thánh và kết thúc ở Chúa nhật lễ kính Đức Chúa Thánh Thần Hiện xuống. Hai cột mốc khởi đầu và khép lại ấy được dân gian gọi là “Vào mùa” và “Ra mùa”. Chúng mở ra một trình tự lớp lang: Mùa Chay, Mùa Thương Khó, Mùa Phục Sinh và Mùa Thường Niên.
Theo chỗ tôi biết thì vào thời điểm lễ lạt này, toàn bộ công việc đồng áng mùa màng như cỏ rả, phân tro, cối cót đã xong; bông lúa ngậm sữa đã chắc, đã mẩy lắm rồi, chỉ còn chờ “ra mùa” là gặt hái, phơi phong. Một khi việc chân tay phần xác có thư nhàn thong dong thì người ta mới có thể toàn tâm toàn ý mà lo việc phần hồn sốt sắng được. Dễ đến cả mấy trăm năm rồi còn gì. Thế nhưng, trong tâm tưởng của nhiều thế hệ, hẳn đã mấy ai quên một thời kỷ niệm xưa xa mà lễ hội Tuần Thánh - Phục Sinh nơi nhà thờ xứ đạo đã nên một phần đời của mình? Nó đã bén rễ rất sâu trong tâm thức với một lịch sử hằng mấy trăm năm, kể từ buổi đầu đón nhận đạo Chúa. Người ta có thể đọc được cái tâm tình hưng phấn và đạo hạnh ấy của các cộng đoàn tiên khởi, qua lời tự thuật của giáo sĩ Đắc Lộ, khi ngài mới đặt chân trở lại vùng đạo cổ Quảng Ngãi vào năm 1644: “Tất cả những gì tôi thấy ở châu Âu đều không cho tôi những tâm tình đạo đức như tôi thấy ở giáo đoàn này… Giáo dân kiên trì thức khuya để dự lễ và khóc lóc rất thảm thương. Phải cứng như đá mới không mủi lòng trong dịp này được. Ngày Thứ Năm Tuần Thánh, tôi đặt Mình Thánh Chúa, nhiều người suốt ngày không rời bỏ nhà thờ. Về khuya, thấy tôi rửa chân cho những người nghèo thì họ cũng chảy nước mắt. Hôm sau, tôi trưng bày thánh giá để họ tới kính thờ và hôn, cùng lúc đó họ ngâm nga những bài ca rất sầu thảm bằng ngôn ngữ của họ về sự thương khó Chúa”[1].
Bên Âu Mỹ vẫn thịnh hành một dịch vụ vẽ hình ảnh Chúa, Đức Mẹ và các thánh trên mặt vỏ trứng |
2.
Nói về những sinh hoạt, những nghi thức diễn ra từ lễ “vào mùa” thì nhiều vô kể. Ở đây, trong khuôn khổ một bài viết tản mạn, tôi chỉ xin phép lược thuật đôi ba nét chính đã khắc họa dấu ấn sâu sắc mang tính đức tin văn hóa trong lòng những ai đã từng đến với “lễ” và “hội” này. Từ chuyện “giữ chay, ăn chay, hãm mình, kiêng thịt” cho đến chuyện “nguyện ngắm, kinh hạt”. Thường thì vào các buổi chiều Thứ Hai, Thứ Tư, Thứ Sáu hằng tuần, tùy theo đoàn hội, xứ đạo nào cũng có thói quen dọn mình sám hối và suy niệm chung với nhau bằng cách “Ngắm mười lăm sự thương khó Đức Chúa Giêsu”, mà dân gian quen gọi là “Ngắm đứng” hay “Gẫm lễ đèn”. Bằng luyến láy, ngân nga theo cung giọng bi thương của điệu “lâm khốc, văn tế” trong nguồn dân nhạc cổ truyền, cuộc khổ nạn cứu chuộc loài người của Chúa Giêsu được từng chức việc đăng đàn, diễn cảm khá điệu nghệ, với sự phụ họa giữ nhịp của trống cái, chiêng, mõ, trống khẩu, nhị, hồ. Nhiều người nổi tiếng ngắm hay, diễn giỏi, thành cái “nghiệp”, rong ruổi hàng huyện, hàng tổng cả tháng trời. Vừa được xướng danh, lại vừa được thưởng (tiền, gạo, vải) về cho giáp, họ, vợ con vui lây. Nói chung, bầu không khí Mùa Chay, Mùa Thương Khó luôn nhuốm vẻ trang nghiêm bi lụy. Thậm chí cả đến cách bài trí cảnh quan trong nhà thờ cũng ủ dột màu tím rịm. Lễ lạy im bặt tiếng đàn địch, chuông khánh, hát ca. Chỉ còn nghe phách mộc, mõ tre cùng sênh bát nỉ non và các bài vãn “dâng hạt, đọc đoạn” thống thiết, não nùng. Tập tục lành thánh và văn hóa này cũng đã có gốc gác từ lâu trong đời sống của các cộng đoàn tiên khởi ở Đàng Trong cũng như Đàng Ngoài, theo lời kể sau đây của cha Đắc Lộ: “Chúng tôi không cử hành nghi thức “Kinh đêm”… Để cho họ khỏi bị thiệt thòi, chúng tôi đã chia các mầu nhiệm thương khó làm 15 đề tài chính. Cứ sau khi đọc chung mười kinh chuỗi hạt thì ngắm một đoạn và suy niệm một trong mười lăm sự thương khó. Sau mỗi lần như thế thì lại tắt 1 trong 15 ngọn nến sáng. Trong nghi lễ, họ khóc lóc kêu gào và rên rỉ tỏ lòng mến thương những thống khổ và cái chết Chúa Cứu Thế chịu, người lân cận cũng đến nghe”[2].
3.
Chúa Nhật Lễ Lá - cánh cửa mở vào Tuần Thánh - tường thuật cuộc hành trình vinh quang của Đức Kitô lên đền thánh Giêrusalem, giữa rừng người và rừng lá ôliu chào đón. Từ chiều hôm áp lễ. người ta phân công nhau đi chặt những tàu lá dừa tươi, rửa sạch, bó lại từng bó, xếp trên bàn lễ vật đặng chờ làm phép và rước chung quanh nhà thờ vào sáng hôm sau. Lễ xong, ai nấy đều mang về vài lá, gọi là lấy “lộc thánh”. Người thì cắm lá vào bình hoa trên bàn thờ. Người lại gài lá lên kèo, lên cột hoặc nơi cửa nhà, như một dấu chỉ “xuất nhập bình an”. Tác giả của sáng kiến này chẳng ai khác hơn là giáo sĩ Đắc Lộ: “… mà bởi vì trong khắp nước An Nam không có cây ôliu, chỉ có rất nhiều cây dừa xanh tốt, nên chúng tôi sử dụng lá dừa trong nghi lễ. Không những có rất nhiều giáo dân, mà cả lương dân cũng đến dự nghi lễ làm phép lá. Cả nhà thờ, cả ở ngoài cũng không đủ chứa… Giáo dân sốt sắng giữ lá phép và đem về nhà dùng để xua đuổi tà ma và quỷ ám”[3]. Chiều Thứ Năm Tuần Thánh có nghi thức “rửa chân”, “làm phép nước” (lễ thánh thủy) và ăn “tiệc chiên” với rau diếp đắng. Con chiên làm bằng xôi nếp thơm, lăn với bột sống, đặt nằm sấp trong chiếc khay gỗ sơn son thiếp vàng. Chủ tế quỳ xuống rửa chân, cắt chiên và chia phần cho 12 chức việc phụ tế. Quá trình trên đây diễn ra theo “lời dẫn” và những bài “ca vãn” do một “thầy già” lĩnh xướng cầm nhịp. Thứ Sáu Tuần Thánh, kỷ niệm Chúa chịu chết trên cây thánh giá. Khắp cả và nhà thờ, xứ đạo bao trùm một màu tang tóc u buồn. Đỉnh điểm của vở “Tuồng Thương Khó” xô đẩy cộng đoàn lên những tầng bậc cao nhất về cảm xúc đức tin, mỗi khi tiếp cận với từng xen cảnh não lòng: Quân dữ lùng bắt Chúa Giêsu; xử án trước tòa Philatô; Đức Mẹ cùng môn đệ Gioan chết lặng dưới chân thập tự; tháo đanh và táng xác Chúa trong mồ. Người ta liệm xác Chúa trong một cỗ quan tài có lồng kính trong suốt, rước vào hang đá rải đầy nỏ gạo rang, hoa xoan và dầu thơm để mọi người hôn kính. Cứ tuần tự theo đoàn hội tiến vào, trong tiếng nhạc vãn và lời than tiếp tục ngân nga cho đến xế trưa hôm sau. Riêng bọn trẻ con chúng tôi cứ như sống trong truyện cổ tích, đứa nào đứa nấy may túi ba gang, vạt trong vạt ngoài đầy ắp những thơm tho lộc thánh. Để rồi chuẩn bị vào nghi thức “vọng”, mừng đại lễ Phục Sinh. Đêm hôm ấy, chẳng mấy ai chợp mắt được. Thôn trên xóm dưới, cờ xí rợp trời, người đi như trẩy hội, quần là áo lượt, canh thức đợi giờ Chúa sống lại. Thế rồi, nhà thờ ồn ã, sáng choang lên những màn trướng, hương hoa, đèn nến, chuông khánh, đàn ca, kèn tây, phường trống, phường trắc, và phường bát âm nhất tề rền vang, giục giã. Chưa bao giờ cảnh nhà thờ xứ đạo lại đông vui sầm uất như thế! Lễ càng lâu, càng trọng vọng, càng sốt sắng. Hình như, con chiên nhà đạo mình vẫn nghĩ mộc mạc đơn sơ thế thôi. Lễ đoạn, từng khu họ, từng dâu giáp, từng đoàn hội, nhà nhà, người người trở về “mở tiệc” ăn mừng “tuần đại phúc” được thập phần mỹ mãn. Lại xôi, giò, chè, cháo, ninh, mọc chuyện trò tở mở như bắp rang, bù lại những tháng ngày “ăn chay, hãm mình, kiêng thịt” vừa qua.
Ngày nay, trong chiều hướng canh tân phụng vụ và công nghiệp đô thị hóa, Pascha không còn cái rôm rả của một lễ hội dân gian như xưa nữa. Chẳng biết có phải là mình đã nặng nợ đa đoan với quá khứ không, mỗi khi nhẩm đọc lại cái dư vang từ những bài ca vãn “làm nền” cho “kiệu bắt”, cho “ngắm đứng”, cho việc “đóng đanh, tháo đanh” và “hôn chân” Chúa…, tôi vẫn cảm thấy “tiêng tiếc” một điều gì khó nói. Dường như, vâng, dường như chút ngọc ngà mà cha ông mình còn gởi gắm đâu đó trong mảng “văn học dân gian của nhà đạo” đang bị lãng quên rơi rớt, tựa mùi hoa xoan thoang thoảng năm nào…
Francis Assisi Lê Đình Bảng
1. Hành Trình và Truyền Giáo, chương 26, trang 129 - Bản Việt ngữ của Hồng Nhuệ - Tủ sách Đại Kết, 1994.
2. Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài, trang 131 - Bản Việt ngữ của Hồng Nhuệ - Tủ sách Đại Kết, 1994.
3. Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài, trang 131 - Bản Việt ngữ của Hồng Nhuệ - Tủ sách Đại Kết, 1994.
Bình luận