Trong gia tài trước thuật phong phú và giá trị của linh mục Gioakim Đặng Đức Tuấn (1806-1874), Lâm nạn phụng quốc hành là tác phẩm có vị trí hết sức quan trọng. Đây là một tác phẩm tự truyện, do đó, mang giá trị tư liệu cao về quãng đời “lâm nạn”, “phụng quốc” của ông. Đặc biệt, trong tác phẩm này, chân dung tinh thần của Đặng Đức Tuấn, một vị linh mục yêu nước được thể hiện rõ nét.
![]() |
1. Lâm nạn phụng quốc hành - tác phẩm quan trọng
Trong tiến trình lịch sử văn hóa dân tộc, cha Khâm Đặng Đức Tuấn có một vị trí trang trọng. Cùng với những cống hiến trên các lĩnh vực tôn giáo, chính trị, xã hội, ông còn là nhà tư tưởng, nhà canh tân, nhà văn lớn. Đặng Đức Tuấn “là một trong số những tác gia quan trọng của văn học Hán Nôm Công giáo Bình Định và có những đóng góp lớn cho lịch sử văn học Hán Nôm Việt Nam” [1].
Di sản văn chương Đặng Đức Tuấn hết sức đa dạng. Trên phương diện văn tự, trước tác của ông có chữ Nôm, chữ Hán và chữ Quốc ngữ (dịch phẩmCách ngôn liên bích). Ông viết thuần thục bằng cả văn xuôi (Hoành mao hiến bình Tây sách,Minh đạo bình Tây sách,Nguyên đạo), văn vần (các tác phẩm thơ) và văn biền ngẫu (các tác phẩm văn tế). Về thể loại, sáng tác của Đặng Đức Tuấn có ca, hành, ngâm, vãn, sách, tế văn… Riêng ở lĩnh vực thơ, ông sử dụng nhuần nhuyễn các thể truyền thống của dân tộc như lục bát, song thất lục bát, bốn chữ hình thức vè cũng như có nguồn gốc Trung Hoa (thơ Đường luật). Có thể nói, “với một gia tài sáng tác Hán Nôm khá đồ sộ, linh mục Gioakim Đặng Đức Tuấn xứng đáng được vinh danh là tác gia tiêu biểu góp phần hoàn thiện bức tranh văn học Hán Nôm Công giáo của khu vực Nam Trung Bộ nói chung và Bình Định nói riêng” [2].
Trong các sáng tác của Đặng Đức Tuấn,Lâm nạn phụng quốc hànhlà tác phẩm vô cùng đặc biệt. Trước hết, đây là một trong hai tác phẩm thơ trường thiên của cha Khâm, bên cạnhViệt Nam giáo sử diễn ca(còn được gọi làThuật tích việc nước Nam vãn).Lâm nạn phụng quốc hànhgồm 352 câu lục bát, 89 câu thơ bốn chữ, 4 bài thất ngôn bát cú viết bằng chữ Nôm và 3 bài thất ngôn bát cú bằng chữ Hán (tác giả tự dịch Nôm 2 bài). Theo nhan đề, sáng tác này thuộc thể “hành”. Tuy nhiên, đây lại là một tác phẩm tự sự bằng thơ, có thể xem là một truyện thơ. Đặc biệt,Lâm nạn phụng quốc hànhmang tính tự truyện đậm nét. Quãng thời gian “lâm nạn” (gặp nạn tại Quảng Ngãi vì dụ cấm đạo của triều đình nhà Nguyễn) và sau đó là “phụng quốc” (đến kinh thành Huế điều trần về việc cứu nước và vào Nam Kỳ nghị hòa) của ông được chính ông thuật lại khá tỉ mỉ trong tác phẩm này. Cùng với đó, tác phẩm còn thể hiện một cách chân thực, sinh động những nỗi niềm suy tư, cung bậc cảm xúc cũng như tấm lòng, nhân cách của một bậc chân tu trọn đời kính Chúa yêu người và nặng lòng vì nước.
Như vậy, bên cạnh giá trị tư tưởng và nghệ thuật,Lâm nạn phụng quốc hànhcòn mang giá trị tư liệu rất cao. Mở đầu tác phẩm, Đặng Đức Tuấn xác tín về những điều mình sắp sửa kể lại:Đặng Đức Tuấn đương hồi báng đản/ Thuật lại đây chuyện vãn cho cùng[3]. Những điều tác giả thuật lại trong tác phẩm này vì thế mang độ tin cậy cao. Từ đó, tác giả “tự họa” lại một cách khá chân thực, đầy đủ về bản thân trên nhiều phương diện. Đây là tư liệu khả tín để tìm hiểu về cuộc đời, hành trạng và con người cha Khâm Đặng Đức Tuấn, một “tinh hoa Công giáo ái quốc Việt Nam”.
2. Chân dung một “tinh hoa Công giáo ái quốc Việt Nam”
Không chỉ “kể lại sự việc trốn lánh khổ sở của tác giả, việc điều trần phương lược an dân, chế thắng với triều đình Huế, việc giảng hòa với Pháp, Tây Ban Nha và kết thúc bằng sự đình chỉ việc cấm đạo” [4], cung cấp nhiều thông tin quan trọng về quê hương, gia đình, thời gian học đạo, thụ phong linh mục tại Penang và “đi khắp mọi nơi/ rao truyền Thánh giáo” (qua lời thừa khai viết bằng thể thơ bốn chữ), Lâm nạn phụng quốc hành còn khắc họa một cách trọn vẹn, sinh động chân dung tinh thần của tác giả.
Trước hết, trong Lâm nạn phụng quốc hành, Đặng Đức Tuấn luôn hiện lên với hình ảnh một tông đồ “trọn niềm kính Chúa”. Trên bước đường lâm nạn, ông mừng rỡ khi tìm được nơi cất giấu tượng ảnh Đức Bà (Lâm cơn ngộ biến phải đi ra/ Mừng thấy da dim gởi tượng Bà) và hân hoan, ngậm ngùi khi trải qua cơn nguy biến, trên đường trở về Quảng Ngãi, tìm được lại tượng Đức Bà còn nguyên vẹn trong bộng cây da năm xưa (Lại xem tượng ảnh Đức Bà/ Hình còn y cựu, bộng đà nhỏ nhoi/ Lấy dao khoét bộng ra coi/ Để vào trong áo ngậm ngùi hân hoan). Ông khôn khéo trước công đường để không làm tổn hại danh Chúa vì bị ép bước qua ảnh Ngài (Bẩm ông xuống phước tôi nhờ/ Ảnh này hình Chúa tôi thờ xưa nay/ Thờ vua còn phải hết ngay/ Thờ Chúa đâu dám đạp giày thế ni). Ông phó thác trọn niềm tin vào Ba Ngôi Chúa và Đức Mẹ (Xin theo ý Chúa mọi đàng/ Cậy Mẹ che chở vẹn toàn thủy chung; Ngửa nhờ Chúa Cả oai linh) và hết lòng cậy trông nơi ơn phước bề trên (Tạc ghi ơn Chúa nhớ hoài mẹ ta; Ơn Chúa hình không, không lại có/…/ Có lòng mến Chúa phước lâu dài). Ông nguyện cầu cho sự chấn hưng của đạo Chúa (Xin cho đạo Chúa hẳn hoi), đồng thời tự hào vì danh Chúa được triều đình và người dân kinh thành Huế biết đến, kính trọng (Kinh thành thiên hạ quan quân/ Kính nhường đạo trưởng, tặng khen Đạo Trời). Trong tình cảnh đạo Chúa bị bắt bớ, càng tin kính Chúa, cha Khâm Đặng Đức Tuấn càng nặng lòng vì sự an nguy của Giáo hội và cộng đoàn. Xót xa trước tình thế tan lạc của Hội Thánh, cha vẫn giữ niềm tin về ngày “bĩ cực thái lai” của đạo Trời trên nước Việt: Dầu thuyền Hội Thánh bơ vơ/ Nhìn sao Bắc Đẩu trông chờ thái lai. Cha đau lòng khi thấy nhiều giáo hữu trong nước vẫn còn bị giam cầm (Nam tráng, đầu mục một bề còn giam) mặc dù sau chuyến đi giảng hòa Nam Kỳ thành công của cha và phái đoàn, vua Tự Đức đã ra chỉ dụ tha cho giáo dân là phụ nữ, trẻ con và người già: Chuyến này giáo hữu thêm hao/ Thấy còn giam cấm lại nao tấm lòng. Cha luôn tìm cách để bảo vệ đạo Chúa trước sự nghi kỵ, phỉ báng, vu oan của chính quyền đương thời, tiêu biểu là đoạn cha Khâm điều trần về đạo Chúa tại triều đình, với những lời lẽ đầy thuyết phục như: Đạo mà nội ứng với tàu Lang Sa/ Thì khi tàu ấy mới qua/ Kéo nhau bỏ xứ chạy hòa theo Tây/ Bởi đạo không có lòng này/ Đâu đó bình tĩnh xưa nay như thường/…/ Đạo chẳng dám xuất, bỏ đi/ Là trọng Thiên Chúa, đâu vì Lang Sa/ Triều đình là lượng mẹ cha/ Bắt bớ thời chịu, thứ tha thời nhờ. Tổng kết lại chặng đường dài “lâm nạn” và “phụng quốc” thăng trầm đầy vinh nhục, cha tạ ơn Chúa và một lòng khấn nguyện cho đất nước, đạo Chúa được bền vững, trường tồn: Thuận phép đều ca ơn rưới đượm/ Đất vua, đạo Chúa hỡi lâu dài. Có thể nói, thấm đẫm, xuyên suốt trong toàn bộ sự nghiệp trước tác của Lm. Gioakim Đặng Đức Tuấn là tấm lòng kính Chúa, yêu thương và lo lắng cho Giáo hội, giáo dân. Tấm lòng ấy càng được thể hiện đậm nét trong và là một trong những yếu tố làm nên giá trị cho Lâm nạn phụng quốc hành của cha.
Trong tác phẩm đặc biệt này, hình ảnh một linh mục Đặng Đức Tuấn “trọn niềm ngay vua”, hết lòng vì dân, vì nước cũng được khắc họa một cách chân thực. Là một bậc chân tu, cha Khâm nhìn thấy mối liên hệ mật thiết giữa đạo Chúa và dân tộc trong giáo lý của Hội Thánh và nhiều lần khẳng định điều này: Đạo dạy thờ Vua dưới đời/ Vì Vua thay mặt Chúa Trời trị dân. Thực dân Pháp gây áp lực nghị hòa với triều đình Huế, trong khi “triều đình bàn luận xôn xao/ Khó nỗi định liệu ông nào ra đi/ Vì còn nhiều việc khả nghi/ Chưa biết bàn định lẽ gì cho hay” thì cha Khâm với tinh thần sống Phúc Âm hết lòng phụng sự Thiên Chúa, phục vụ dân tộc, đã sẵn sàng dấn thân, đương đầu, gách lấy trọng trách: Tuấn rằng: ông lớn lượng cao/ Sớ tâu Hoàng Đế xin vào Đồng Nai/ Cho tôi tùng phái với ngài/ Tôi dám quả quyết không ai làm gì. Trong thời gian nghị hòa tại Nam Kỳ, trước yêu cầu quá đáng của người Pháp (Xin bồi ngũ bách vạn nguyên/ Xin giao sáu tỉnh thời yên mọi đàng), khi được Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp tham vấn, Đặng Đức Tuấn chủ trương chỉ bồi thường chiến phí, quyết không cắt đất: Đòi bồi thì chịu, đừng giao tỉnh thành. Đáng tiếc là Hòa ước Nhâm Tuất được ký kết với các điều khoản không như chủ trương của cha Khâm (giao Pháp ba tỉnh miền Đông, bồi thường chiến phí 4/5 triệu đồng) nhưng tinh thần “bảo quốc, chỉ chịu bồi khoản bằng tiền chứ không chịu nhường đất” [5] của ông đã được thể hiện một cách mạnh mẽ, dứt khoát. Đây là một trong những phương diện nói lên tấm lòng yêu nước sâu sắc của một vị linh mục trong tình cảnh nước nhà đương đầu với ngoại xâm, Giáo hội bị bắt bớ, tản lạc.
Qua Lâm nạn phụng quốc hành, ta còn thấy được hình ảnh một linh mục Đặng Đức Tuấn khiêm nhường nhưng đầy bản lĩnh trước mọi biến cố, tai họa, thử thách (qua việc ứng phó trước sự tra khảo của quan lại tại Quảng Ngãi cũng như ứng đáp với các quan lớn tại kinh thành, trong chuyến Nam du nghị hòa…); một cha Khâm khoan dung, nhân từ, luôn nặng lòng về việc xóa bỏ hiềm khích lương giáo, hướng đến hòa hợp dân tộc, xứng đáng được triều đình giao đặc trách an dân (Đặng đi thăm viếng kẻ đau, người lành/…/ Nghĩ câu thố tử hồ bi/ Cảm thương mấy kẻ ở vi các làng/ Kể sao cho xiết cho xiết gian nan/ Trăm bề tấc tưởi một đoàn tù lao); và một thi nhân Đặng Đức Tuấn với tâm hồn thanh cao, giàu cảm xúc, nặng nghĩa tình (Việc rồi Tuấn mới dạo chơi/ Thăm Đức cha Ngãi với người cố tri/ Gặp nhau mừng rỡ xiết chi; Trải qua Nam Ngãi đường Vân/ Bến xưa, da cũ ân cần nhớ trông)… Chân dung một “tinh hoa Công giáo ái quốc” vì thế được thể hiện một cách tự nhiên, chân thực và hết sức thật trọn vẹn, đẹp đẽ.
Có thể nói, không chỉ là tư liệu quan trọng cho việc tìm hiểu về cuộc đời, hành trạng của linh mục Gioakim Đặng Đức Tuấn, Lâm nạn phụng quốc hành còn thể hiện một cách sinh động về con người, nhân cách, tấm lòng của cha. Trên phương diện thể loại, có thể xem Lâm nạn phụng quốc hành là một trong những tác phẩm tự truyện bằng thơ Nôm độc đáo bậc nhất trong văn học trung đại nước ta.
3. Thay lời kết
Trong bài viết “Cha Đặng Đức Tuấn: một linh mục chân tu, một công dân ái quốc”, Lm. Phạm Châu Diên khẳng định: “Đối với Giáo hội, cha Đặng Đức Tuấn quả là một vị chân tu, không màng danh lợi, và cũng là một vị tông đồ can đảm, hy sinh để bênh vực Thánh giáo. Đối với quốc gia, ngài là một công dân trung quân ái quốc, chẳng ngại gian lao vất vả, đem tài lực ra để kinh bang tế thế (trị nước giúp đời), bảo vệ quyền lợi cho dân tộc […] có công cao đức cả với Đạo với Nước” [6]. Tác phẩm của cha, đặc biệt là Lâm nạn phụng quốc hành một lần nữa xác quyết điều này.
Nhìn lại cuộc đời và hành trạng của Lm. Gioakim Đặng Đức Tuấn, có thể khẳng định những cống hiến của cha đối với Dân tộc và Giáo hội là hết sức to lớn. Tuy nhiên, việc vinh danh đến nay vẫn chưa tương xứng với tầm vóc của danh nhân văn hóa Đặng Đức Tuấn. Chỉ riêng trên lĩnh vực văn học, ta cũng thấy rõ thực trạng này. Trong bộ Từ điển văn học (bộ mới) đồ sộ ấn hành năm 2004 chưa có mục từ Đặng Đức Tuấn. Đặng Đức Tuấn với tư cách là một tác gia văn học Hán Nôm lớn ở thế kỷ XIX hầu như chưa được đề cập trong các bộ giáo trình văn học sử. Sự nghiệp văn chương đồ sộ và giá trị của ông chưa được chú ý nghiên cứu đúng mức. Đến nay, gần như vẫn chưa có các hội thảo, tọa đàm khoa học về văn chương Đặng Đức Tuấn. Rõ ràng, chúng ta đang nợ tiền nhân một lời tri ân…
PHẠM TUẤN VŨ
___________________________________
[1], [2] Võ Minh Hải, Nguyễn Thanh Sơn (2022), “Gioakim Đặng Đức Tuấn - Tác gia tiêu biểu của văn học Hán Nôm Bình Định”, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 64, tr.50, 51.
[3] Toàn bộ trích dẫn tác phẩm của Linh mục Đặng Đức Tuấn được dẫn từ cuốn Đặng Đức Tuấn - Tinh hoa Công giáo ái quốc Việt Nam, Sđd.
[4] Lam Giang, Võ Ngọc Nhã (1970), Đặng Đức Tuấn - Tinh hoa Công giáo ái quốc Việt Nam, Tân Văn ấn quán, dẫn theo bản của Tủ sách Nước Mặn, 2023, tr.29.
[5] Đặng Đức Tuấn - Tinh hoa Công giáo ái quốc Việt Nam, Sđd, tr.146.
[6] Lm. Phạm Châu Diên (1960), “Cha Đặng Đức Tuấn: một linh mục chân tu, một công dân ái quốc”, Bản Thông tin Địa phận Quy Nhơn, số 18, dẫn theo tại địa chỉ: https://gpquinhon.org/q/on-co-tri-tan/cha-dang-duc-tuan-mot-linh-muc-chan-tu-mot-cong-dan-ai-quoc-2291.html.
Bình luận