Với những ai quan tâm đến cuộc đời Ðức cha Jean Cassaigne thì sự kiện Ðức cha (lúc đó còn là một linh mục) gặp gỡ và rửa tội cho bà Ka Trút là một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời cha. Từ đó, ngài gắn liền với những mảnh đời bất hạnh, phong cùi của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao nguyên Lang Biang, và đã qua đời ngay tại trại phong Di Linh do chính mình sáng lập…
Cha Jean Cassaigne sinh năm 1895 tại giáo phận Air et Dax (Pháp).Ngay từ thời niên thiếu, ngài đã say mê tiểu sử thầy giảng Anrê Phú Yên, vị thánh tử đạo đầu tiên của Việt Nam. Năm 1919, Jean Cassaigne tu học tại Chủng viện Thừa sai Paris và thụ phong linh mục ngày 19.12.1925. Chỉ 4 tháng sau (1926), cha từ giã gia đình, xuống tàu qua Việt Nam, học tiếng Việt ở Cái Mơn (Bến Tre) và chọn tên Việt là Gioan Sanh. Đầu năm 1927, Đức cha Joseph Dumortier Đượm cử ngài làm cha sở họ Di Linh. Thánh lễ đầu tiên chỉ có cha, chú giúp lễ đem từ Sài Gòn, ông bõ điếc xin theo từ Cái Mơn và cặp vợ chồng người dân tộc thiểu số.
![]() |
Nghệ nhân Nguyễn Thành Trung |
Vào một ngày thứ Năm cuối năm 1927, khi đi săn trong rừng, cha gặp một phụ nữ cùi rên la bị gia đình bỏ mặc trong một chòi lá cao, chờ chết. Cha trèo lên đến sát bên an ủi. Hôm sau, cha đem thuốc và đồ ăn tới, sau đó tiếp tục thăm và chăm sóc, và rửa tội cho bà, được hai tuần thì bà chết. Trước khi nhắm mắt, bà nói: “Ông Lớn ơi, con sẽ nhớ đến Ông Lớn, khi con về Nước Trời”. Đó là viên đá đầu tiên trong đời truyền giáo của mình. Cha đã dâng thánh lễ tạ ơn sốt sắng như lễ mở tay. Nhờ đó cha biết có nhiều người cùi lang thang trong rừng. Cha tiếp tục tìm kiếm người cùi, thuyết phục họ về sống chung, gần ngài, từ từ tập trung họ sống thành làng. Cuối tháng 3.1927, ngài cất nhà nguyện bằng lá, bắt đầu có thánh lễ mỗi Chúa nhật. Ngày 19.3.1929, ngài chọn ngày lễ thánh Giuse làm ngày khai sinh Làng Cùi, rửa tội cho người đàn ông dân tộc thiểu số đầu tiên tên Giuse Braé. Làng có 23 bệnh nhân cả nam nữ, tại đồi Kala, ở trong 6 căn nhà lá. Noel 1930, một gia đình được rửa tội, khánh thành tháp chuông. Tiếng chuông đầu tiên vang lên thay cho tiếng cồng. Một mình coi xứ đạo, và làm đủ việc: làm người chăm sóc sức khỏe, kiêm người chạy gạo và thuốc men cho dân làng cùi. Từ đây, cha nhuốm bệnh sốt rét và lao phổi. Một năm bị sốt tới 10 tháng như cha nói : “Trong 12 tháng, tôi bị sốt hết 10 tháng. Nhưng tôi không thể nằm nghỉ, vì không chút yên lòng và không có một ai thay thế tôi lo cho bệnh nhân”. Năm 1938, có thêm 3 nữ tu dòng Bác Ái Vinh Sơn người Pháp đến giúp. Làng cùi lúc này đã có tới 100 người.
Đọc lịch sử đời của cha Jean Cassaigne, nhất là nghe kể về cuộc gặp gỡ của ngài với người đàn bà cùi khốn khổ giữa rừng, rồi rửa tội cho bà mà chúng tôi chép lại ở trên, đã tác động mãnh liệt vào tâm thức của nghệ nhân Nguyễn Thành Trung, khiến ông quyết tâm thực hiện cụm tượng về đề tài này.
![]() |
Trong xưởng đắp tượng |
Nghệ nhân Giuse Nguyễn Thành Trung sinh năm 1954, hiện ở giáo xứ Thánh Tâm, (hạt Bảo Lộc, GP Đà Lạt) là một giáo dân rất nhiệt thành với các hoạt động thiện nguyện, đồng thời ông cũng thực hiện nhiều công trình nghệ thuật thánh cho các nơi. Đặc biệt là 2 cụm tượng điêu khắc “Hoa quả đầu mùa” (Đức cha Jean Cassaigne rửa tội cho bà Ka Trút). Ông kể: “Cách đây khoảng 20 năm, tôi có đến trại phong Di Linh để giúp sắp xếp một số hiện vật để hình thành phòng truyền thống của trại. Dịp này tôi được các nữ tu dòng Nữ Tử Bác Ái hướng dẫn tham quan phòng làm việc, chỗ ngủ của Đức cha Jean Cassaigne, đặc biệt là được xem những quyển album lưu lại hình ảnh hoạt động của ngài từ khi khai hoang mở đất ở vùng Di Linh, những hình ảnh Đức cha Sanh sống, giúp đỡ người phong cùi. Qua đó, lòng kính yêu ngài tăng gấp bội. Rồi năm 2008, Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn (lúc đó là Giám mục Đà Lạt, sau này là Hồng y TGM Hà Nội - NV) cho gọi tôi để phụ với cha Giuse Nguyễn Văn Sinh từ Thụy Sĩ về giúp giáo phận Đà Lạt hình thành Nhà truyền thống mang tên Jean Cassaigne. Từ đây, tôi hiểu biết sâu rộng hơn về công cuộc truyền giáo của giáo phận nói chung và của Đức cha Jean Cassaigne nói riêng. Câu chuyện hoa trái đầu mùa của cha Sanh là rửa tội cho bà Ka Trut, một bệnh nhân phong cùi thường xuyên nhận sự giúp đỡ của cha. Bà Maria Ka Trut qua đời ngày 20.12.1927 và được an táng ngày 22.12.1927 tại nghĩa trang của người dân tộc đồi Ka La (Di Linh). Đây là một gợi ý đầy cảm xúc để tôi thực hiện cụm tượng “Hoa quả đầu mùa” bằng xi-măng cao 1.8m đặt trước Nhà truyền thống Jean Cassaigne của giáo phận Đà Lạt, tọa lạc trong khuôn viên Trung tâm Mục vụ giáo phận Đà Lạt.
Rồi tháng 4.2021, dịp HĐGM Việt Nam loan báo chấp thuận để GP Đà Lạt khởi sự tiến trình xin mở án phong chân phước và hiển thánh cho Đức cha Jean Cassaigne, cha Phaolô Lê Đức Huân - Quản xứ Ka La, cũng là Trung tâm Truyền giáo của giáo dân K’ho đề nghị thực hiện lại cụm tượng “Hoa quả đầu mùa” bằng chất liệu thép không gỉ (inox), cao 2m, nặng 150kg. Cụm tượng hoàn thành sau 8 tháng gò hàn liên tục với 4 người cùng phụ việc với tôi, hiện được tạm đặt trước ngôi nhà thờ gỗ có từ thời Đức cha Jean Cassaigne, chờ ngôi nhà thờ mới xây dựng hoàn tất sẽ chọn vị trí thích hợp để đặt.
Ngoài tác phẩm bằng chất liệu thép này, tôi cũng làm một số tượng, phù điêu cho một số nhà thờ trong giáo phận như tượng Thánh Tâm Chúa Giêsu cao 6m (giáo xứ Thánh Tâm, Lộc Phát); tượng Thánh Tâm Chúa Giêsu cao 3m (giáo xứ Thánh Tâm, Lộc Tiến)…, và thiết kế mỹ thuật cho các ngôi nhà thờ vùng truyền giáo như nhà thờ Dà Lơngêt (Tân Bùi, Bảo lộc); nhà thờ B’Sumrăc (Lộc Tân, Bảo Lâm) và hiện nay là nhà thờ Ka La, Di Linh…”.
![]() |
ĐGM Jean Cassaigne chụp ảnh với đồng bào dân tộc ngày 24.6.1941 |
Không chỉ hoạt động truyền giáo và suốt đời hy sinh cho đàn con cái là những bệnh nhân cùi người dân tộc thiểu số, Ðức cha Jean Cassaigne còn có công lao rất lớn khi phát kiến ra chữ viết cho cộng đồng các dân tộc thiểu số vùng cao nguyên Lang Biang, đó là chữ K’ho… Cha học và nói thông thạo tiếng thượng K’ho, xuất bản tự điển K’ho-Pháp-Việt (1929) và Phong tục người Thượng (1937) in tại Tân Ðịnh. Có thể nói, nếu như các linh mục Francisco de Pina, Alexandre de Rhodes có công sáng tạo ra chữ quốc ngữ thì Ðức cha Jean Cassaigne lại là người sáng tạo ra chữ K’ho. Ca sĩ Bonneur Trinh (dân tộc Lạch - Giải Nhất THTH TP.HCM 2001) - người từng nhiều năm làm phát thanh viên cho chương trình phát tiếng K’ho của Ðài Truyền hình Lâm Ðồng cho biết: “K’ho là ngôn ngữ phổ thông của cộng đồng người thiểu số bao gồm các nhánh Lạch, Cil, Mạ, Sre, M’nông, S’tiêng… (tuy nhiên mỗi nhánh cũng có những từ ngữ địa phương riêng và cách phát âm nặng nhẹ khác nhau, như cách phát âm 3 miền của người Kinh vậy). Về Giám mục Jean Cassaigne, tôi chưa có dịp tìm hiểu nhiều về ông, chỉ biết ông là người sáng tạo ra chữ viết K’ho. Tôi rất biết ơn ông vì ông là người đã cho cộng đồng dân tộc thiểu số chúng tôi chữ viết và tôi nghĩ cộng đồng dân tộc chúng tôi mang ơn ông ấy”. |
HÀ ĐÌNH NGUYÊN
Bình luận