Nói đến văn hóa Tây Nguyên, người ta dễ nghĩ đến tiếng cồng chiêng, nhà rông, những bộ sử thi, sự đa dạng trong ngôn ngữ và phong phú trong cung cách sinh hoạt, tập quán của đồng bào các dân tộc thiểu số. Tại giáo phận Ban Mê Thuột, song song với mục vụ đức tin là chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho bà con sắc tộc. Và, giữ gìn văn hóa bản làng là một nhiệm vụ quan trọng…
![]() |
Nhà Truyền thống dòng Nữ Vương Hòa Bình lưu giữ hiện vật văn hóa các dân tộc - ảnh: Hùng Luân
|
“MỘT KHI NGÔN NGỮ CÒN…”
Nữ tu bề trên dòng Nữ Vương Hòa Bình (một hội dòng được thiết lập với sứ mạng truyền giáo, gắn bó với người dân tộc thiểu số) Maria Nguyễn Thị Thuận, có một chia sẻ mà chúng tôi nhớ mãi: “Một khi ngôn ngữ của một dân tộc còn được lưu truyền thì dân tộc đó còn tồn tại”. Sơ nói như thế khi có dịp chuyện trò về mục vụ tại vùng đất Ban Mê. Sơ cho rằng, những thành phần Dân Chúa, từ bậc tu sĩ đến những tín hữu người Kinh khi tiếp cận, gần gũi anh chị em sắc tộc không đơn thuần là có sự hợp tác để sinh hoạt chung trong cộng đoàn mà còn hướng đến việc giúp đồng bào bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa. Bởi lẽ, văn hóa là cái đẹp. Lời tâm sự của sơ khiến chúng tôi liên tưởng ngay đến nỗi thao thức của Phạm Quỳnh, một nhà văn hóa thế kỷ trước: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn”. Đặt trong sự tương quan như vậy để nói lên thực tế, ngôn ngữ và rộng hơn, văn hóa Tây Nguyên cũng đứng trước nguy cơ bị xâm thực, dễ có nguy cơ pha tạp và cũng dễ biến chất nếu không có sự dày công gìn giữ. Trong một xã hội phát triển, các cộng đồng văn hóa chung sống không khó có sự tác động lẫn nhau. Cuộc sống ngày càng hiện đại, khi những giá trị vật chất được đề cao, để vun bồi cho đời sống mình, để chạy cho kịp với nhịp độ của xã hội thì hẳn, văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số cũng dễ bị rơi vào tình trạng ít tha thiết…
![]() |
Nhà sinh hoạt giáo lý được thiết kế kiểu nhà sàn tại giáo họ Kim Sơn. - ảnh: Hùng Luân |
Đức cha Vinhsơn Nguyễn Văn Bản từ khi nhận giáo phận Ban Mê Thuột, nhìn thấy điểm đặc thù của giáo phận miền cao nguyên này, nên đã mời gọi các cộng đoàn Dân Chúa chú trọng, chăm lo đời sống anh em dân tộc thiểu số lẫn gìn giữ và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp từ ngàn đời của người bản địa: “Vùng đất Tây Nguyên từ xa xưa vốn là nơi sinh sống của đông đảo người sắc tộc. Người Kinh đến đây, phải biết ơn người sắc tộc. Chúa ban cho các dân tộc những đặc tính khác nhau, những nét văn hóa, sinh hoạt, vậy tại sao chúng ta không tôn trọng văn hóa của các dân tộc và gìn giữ những giá trị tốt đẹp đó?”. Tại giáo phận Ban Mê Thuột, Đức cha Vinhsơn chủ trương dùng tiếng sắc tộc để hội nhập với các dân tộc và nhắc nhở các linh mục, tu sĩ làm sao có thể giúp bà con các dân tộc bản địa thêm ý thức về việc giữ gìn, phát huy văn hóa của mình. Trong đời sống sinh hoạt của các giáo xứ, các cộng đoàn, Đức cha nhấn mạnh lưu tâm việc hòa nhập, tôn trọng và làm lan tỏa các giá trị văn hóa Tây Nguyên.
![]() |
Văn bản kinh kệ bằng tiếng GiaRai dùng trong các giờ lễ - ảnh: Hùng Luân |
BẢO TỒN TRÊN CÁC PHƯƠNG DIỆN
Văn hóa là một phạm trù rộng. Trong vai trò của mình, các linh mục, tu sĩ đã nỗ lực để cùng với tín hữu sắc tộc duy trì và nâng niu các giá trị tích cực. Trên bình diện Phụng vụ, có thể nói, giáo phận Ban Mê Thuột đã dành nhiều công sức chuyển tải các bản văn kinh kệ từ tiếng Kinh sang tiếng địa phương như Ê đê, Gia Rai. Dĩ nhiên, việc chuyển tải này có sự kết hợp hoặc sử dụng bản văn, tài liệu dịch thuật từ nhiều nguồn. Ở các cộng đoàn giáo hữu có đông đảo bà con sắc tộc, các cha đã dâng lễ bằng ngôn ngữ của họ. Việc hát một số bài ca bằng tiếng bản địa trong Phụng vụ cũng được cho phép thử nghiệm. Cha GB Nguyễn Minh Tâm, chánh xứ Vinh Hòa, giáo phận Ban Mê Thuột cho biết, tại giáo xứ thường xuyên có thánh lễ thiếu nhi cho trẻ con người Ê đê. Trong lễ, có ca đoàn Ê đê tham gia trực tiếp hát lễ. Việc sinh hoạt, ca hát bằng tiếng Ê đê cũng được tổ chức. Hay tại giáo họ Ea Lê, nơi có đông bà con dân tộc Gia Rai sinh sống, trong thánh lễ, một số kinh và bài hát lễ đã được chuyển sang tiếng Gia Rai. Ở giáo họ gần vùng biên giới này (cách biên giới với Campuchia khoảng 50 cây số), tuy đời sống bà con còn nhiều khó khăn, song các sinh hoạt đức tin thật sôi nổi. Các dịp quan trọng của giáo họ, lễ tết, với trang phục truyền thống và những khúc ca, giai điệu đặc trưng, bà con mừng lễ trong hân hoan. Nói về việc áp dụng bản văn Phụng vụ và bài hát thánh ca bằng tiếng dân tộc thiểu số, nữ tu Maria Vũ Thị Đoan Trang, dòng Nữ Vương Hòa Bình cho rằng, bà con rất vui vì dâng lễ bằng tiếng của mình: “Khi đến với anh chị em sắc tộc, các cha, các sơ nói tiếng của người bản địa thì mọi người vui lắm. Mình cũng cố gắng học để hiểu hơn, dễ giao tiếp hơn. Trong các sinh hoạt, phụng vụ, bà con được sử dụng tiếng mình càng yêu thích và dự lễ sốt sắng. Các sinh hoạt trong xứ như vui chơi, văn nghệ, ca đoàn tập hát cũng xôm tụ…”. Thật vậy, ông Ma Đung, Trưởng Ban hành giáo, giáo họ Ea Lê khi giới thiệu cho chúng tôi các tài liệu chuyển ngữ các bản văn Phụng vụ bằng tiếng Gia Rai, đã vui vẻ đọc các đoạn kinh bằng tiếng dân tộc mình. “Mọi người ở đây phấn khởi đi lễ. Ca đoàn hát vang mấy bài bằng tiếng của dân tộc. Thật vui. Ngôi nhà nguyện giáo họ này tuy đơn sơ, tạm bợ nhưng là mái nhà ấm cúng của bà con trong cả giáo họ và khu xóm, các dịp lễ lớn vui lắm”, ông nói. Quanh ngôi nhà nguyện, có nơi một số ảnh sinh hoạt của bà con được trưng bày. Ai nấy hớn hở trong trang phục truyền thống để dự lễ, dâng hoa…
![]() |
Những đêm văn nghệ đậm đà bản sắc - ảnh: Dòng Nữ Vương Hòa Bình |
Ở Ban Mê, hầu như các linh mục trẻ đều biết tiếng của người bản địa. Vì điều này nằm trong chương trình đào tạo linh mục mà Đức cha Vinhsơn Nguyễn Văn Bản bắt buộc. Các nữ tu dòng Nữ Vương Hòa Bình cũng được dạy tiếng sắc tộc để có thể tiếp cận dễ nhất với người dân tộc thiểu số. Hơn nữa, trong quá trình mục vụ, bằng sự gắn bó sẻ chia, những linh mục, tu sĩ còn khơi lên cho người trẻ sắc tộc niềm tự hào và ý thức gìn giữ văn hóa dân tộc mình. Nhà lưu trú sắc tộc do các nữ tu Nữ Vương Hòa Bình phụ trách là một trong các nơi làm khá tốt điều này. Nữ tu Maria Nguyễn Thị Thuận, bề trên hội dòng và là người gắn bó dài năm với nhà lưu trú Têrêsa cho biết, khi các em nhỏ từ các gia đình sắc tộc gởi vào đây, ngoài việc được các sơ nuôi dạy, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng, còn sinh hoạt, giao lưu nối kết nhau, có những hoạt động giúp các em thêm lòng yêu mến dân tộc mình: “Trong năm, thỉnh thoảng có những cuộc thi nấu ăn, văn nghệ, mỗi em phải giới thiệu cho tập thể món ăn đặc trưng của dân tộc mình hay là hát bài tiếng sắc tộc, thuyết trình về ngôi nhà sàn, nhà dài, chiếc áo truyền thống, điểm riêng của dân tộc…”. Cũng trong ngôi nhà này, nhiều bạn trẻ đã thể hiện tài năng. Anh Tis (29 tuổi), một chàng trai người Xê Đăng là một điển hình. Tis đã tự chế tác và biểu diễn các loại nhạc cụ Tây Nguyên như đàn đá, đàn T’rưng, sáo vỗ… Anh cũng là người chủ chốt trong đội văn nghệ của nhà lưu trú Têrêsa, thường xuyên biểu diễn phục vụ du khách ở các nơi du lịch… “Nhờ được sinh hoạt trong nhà lưu trú, các sơ chỉ bảo và tạo điều kiện, khuyến khích tôi phát triển niềm đam mê âm nhạc dân tộc mà tôi đã mạnh dạn, tự tin hơn. Tôi cũng sẽ cố gắng hơn trong tương lai để phát triển bản thân…”, Tis tâm sự.
Đồng hành với tín hữu sắc tộc trong đức tin, cuộc sống và trong văn hóa, có thể nói vì vậy mà nhịp sống đạo của bà con giáo phận miền cao này luôn chảy trôi trong tình huynh đệ. Viếng thăm một vòng giáo phận, chúng tôi cảm nhận được sự hài hòa, gắn kết trong đời sống…
Ý thức hòa nhập, bảo tồn văn hóa Tây Nguyên tại giáo phận Ban Mê Thuột có thể thấy không chỉ trong phụng vụ, trong giáo dục, sinh hoạt mà ngay cả việc xây dựng các cơ sở vật chất, giáo phận này còn cố ý đưa vào nét Tây Nguyên đặc sắc. Nhà nguyện Tòa Giám mục Ban Mê Thuột được thiết kế đậm nét Tây Nguyên. Công trình này xây dựng hoàn toàn bằng gỗ, lợp mái ngói vẩy. Phần chính lấy theo mặt bằng nhà dài người Ê đê, mặt bằng nhà nguyện được sắp xếp với cầu thang chính tiếp giáp với lối vào. Bên trong chia thành hai khu vực là nơi giáo dân dự lễ và nơi các nữ tu dự lễ. Bàn thờ ở trung tâm. Từ hai phía đều có thể nhìn thấy thánh giá. Tòa Giám mục còn có tháp chuông thiết kế theo hình tượng nhà rông. Tại hội dòng Nữ Vương Hòa Bình, dịp kỷ niệm 50 năm thành lập hội dòng (2019), nhà truyền thống đã chính thức đưa vào sinh hoạt. Nơi này, những bạn trẻ sắc tộc có thể tìm hiểu, có thêm kiến thức để nuôi giữ tình yêu dân tộc. Còn khách hành hương cũng có thể tham quan, hiểu hơn… về lối sống, văn hóa Tây Nguyên. Ở các giáo xứ có đông đồng bào sắc tộc, những nhà nguyện, nhà học giáo lý… cũng xây theo kiến trúc nhà sàn, nhà dài, thoáng mát mà lại gần gũi. Như giáo họ Kim Sơn thuộc giáo xứ Giang Sơn, nơi có khoảng 2.000 giáo dân sắc tộc, điểm nổi bật thu hút khách hành hương từ phương xa đến có lẽ là công trình nhà xứ và nhà nguyện đều dựng bằng nhà sàn. Bà con xứ đạo đến sinh hoạt tại ngôi nhà thờ như đang ở trong buôn làng. Cha quản nhiệm Ðaminh Nguyễn Vũ Hoàng Long cho biết, công trình nhà thờ khá mới mẻ, khánh thành năm 2021, còn các nhà giáo lý, khu sinh hoạt cũng dần hoàn thiện trong thời gian đó. |
Hùng Luân
Bình luận