Những cột mốc thời gian
Tháng 1.1959, Đức Gioan XXIII thông báo cho vài vị hồng y biết ý định triệu tập một “Công đồng chung” 92 năm sau Công đồng Vatican I. Việc triệu tập chính thức diễn ra gần hai năm sau, ngày 25.12.1961. Công đồng kéo dài ba năm, phân ra làm bốn kỳ họp từ 3 đến 4 tháng cho mỗi kỳ. Kỳ 1 khai mạc ngày 11.10.1962, với sự hiện diện của 2.400 giám mục đến từ 136 quốc gia.
Đức Gioan XXIII qua đời vài tháng trước khi khai mạc kỳ họp thứ 2 (6.1963). Đức Phaolô VI kế vị ngài. Công đồng thứ 21 trong lịch sử Giáo hội kết thúc ngày 8.12.1965. Công đồng đã công bố 16 văn kiện, gồm 4 hiến chế, 9 sắc lệnh và 3 tuyên ngôn.
Các văn kiện
Hiến chế đầu tiên Sacrosanctum concilium được thông qua từ năm 1963, bàn về phụng vụ. Văn bản thần học này đề cập việc canh tân và đơn giản hóa các nghi thức, tạo điều kiện cho các tín hữu được tham gia tích cực vào phụng vụ, đặc biệt là việc cử hành các nghi thức bằng tiếng bản xứ và hầu như loại bỏ hẳn tiếng La-tinh.
Hiến chế thứ hai, Lumen Gentium (Ánh sáng muôn dân), là một văn kiện tín lý, nhấn mạnh đến sự bình đẳng giữa các thành phần dân Chúa. Qua đó, mỗi người được “mời gọi nên thánh”, cũng như về vai trò các giám mục và giáo dân. Giáo hội cũng nhìn nhận qua bản văn trọng tâm này rằng, trong các Giáo hội Kitô khác cũng có các “nhân tố chân lý”.
Ở kỳ họp cuối cùng công bố các văn bản quan trọng nhất của Công đồng: các tuyên ngôn Nostra Aetate, bàn về các mối liên hệ với các tôn giáo ngoài đạo Kitô, và Dignitatis humanae đề cập đến tự do tôn giáo; các hiến chế Dei verbum (Mặc khải) và Gaudium et spes (Giáo hội trong thế giới ngày nay).
Trong Nostra Aetate, Giáo hội đề xuất xem lại lời giảng dạy của mình về người Do Thái, và suy kỹ lại mối tương quan thần học của Giáo hội với Do Thái giáo. Như sử gia Philippe Chenaux giải thích, “chúng ta chuyển từ nền thần học về sự thay thế (Israel đã bị Thiên Chúa ruồng bỏ và được thay thế bởi Giáo hội) sang quan điểm thần học về “dòng dõi”, nguồn gốc”. Vậy từ khởi đầu, văn kiện đề cập các mối tương quan giữa Giáo hội và đạo Do Thái, về sau mở rộng tầm nhìn sang Hồi giáo.
Bản văn về tự do tôn giáo cũng đánh dấu việc hủy bỏ thái độ “độc tôn” trong lịch sử Giáo hội. Cách tiếp cận mới mẻ này cho rằng không ai bị ngăn cản hay bó buộc phải theo một đạo nào đó. Ngày nay Hội Thánh đề cao khái niệm này qua các tương quan của mình với Hồi giáo để mời gọi tín hữu đạo ấy cũng áp dụng tương tự nguyên tắc đó.
Hiến chế Dei verbum bàn đến mạc khải của Thiên Chúa, cách thức tín hữu phải thấu hiểu Kinh Thánh và phương pháp giải thích của các nhà chú giải và thần học khi quan tâm đến lối tiếp cận phê bình lịch sử. Đồng thời, văn kiện này thừa nhận tính chất lịch sử của các bản văn Tin Mừng.
Gaudium et spes, đề cập đến “Giáo hội trong thế giới ngày nay”, và mở rộng tầm suy tư của Hội Thánh trước các vấn đề nảy sinh từ tính hiện đại, chủ trương đa nguyên văn hóa, các vấn đề luân lý, chiến tranh và phẩm giá con người. Sau nhiều cuộc tranh luận, đa số văn kiện được nhất trí thông qua.
Viết Hiệp
Bình luận