Khi tôi vừa làm dấu thánh và ngồi xuống băng ghế nhà thờ, thì một sơ trẻ dẫn tới một cậu bé, bảo: “Ba ơi, nhờ ba coi chừng em này giúp sơ. Em này là trường hợp đặc biệt trong lớp giáo lý”.
“Chết”, tôi định kêu lên, “sơ ơi, con đâu có giỏi làm bảo mẫu, mặt mày của con cũng đâu có ngầu nghiếc gì mà có thể giữ thằng bé này”.
Nhưng thôi, việc tới tay thì cũng cố gắng thử một phen.
Thằng bé trông mặt mũi hiền lành, áo trắng đóng thùng quần xanh, cổ đeo khăn quàng Thiếu nhi Thánh Thể màu xanh lá cây. Trông nó thông minh sáng sủa, phong thái nghiêm trang chẳng khác gì những đứa bé đồng trang lứa.
![]() |
Nhưng chỉ nghiêm trang được ít phút thôi, khi cha vừa lên bàn thờ làm dấu thánh là nó bắt đầu quay bên nọ, quờ bên kia. Nó dùng móng tay cào lên cửa sổ và chân nhún nhảy như đang tập dượt hip hop khi cộng đoàn đọc kinh Tin Kính. Nó hát khi cộng đoàn đang nâng tâm hồn lên (ai mà biết những tiếng ư ư phát ra từ miệng nó đang theo giai điệu bài hát nào!). Nó rút cái khăn quàng Thiếu nhi Thánh Thể quàng lên mắt rồi chơi trò bịt mắt bắt dê với một con người tưởng tượng nào đó. Nó gãi đầu và uốn éo tự do. Dù cái gã xa lạ bên cạnh hết trợn mắt rồi đến nhăn trán, bặm môi làm ngầu, thì có vẻ với nó chẳng “ép phê” gì. Những người ngồi cạnh bắt đầu mất tập trung. Các bà lấy quạt che miệng nói thầm với nhau: “Thằng nhỏ bị tự kỷ đó”. “Ừ, sáng sủa vậy mà tội nghiệp”. “Ông kia là ba nó đó hả?”...
Từ bên ngoài, một phụ nữ trẻ bước đến bên tôi, nói nhỏ: “Anh cho em dẫn thằng bé đi chứ nó quậy quá”. “Chị là...”. “Em là mẹ nó. Định thử nhờ anh coi giùm vì đứng với mẹ nhõng nhẽo nhưng kiểu này thì không được rồi”.
Rồi chị dắt tay thằng bé ra khỏi hàng ghế. Thằng bé đu bám theo mẹ. Nó ra sân và chạy nhảy một hồi, còn người mẹ thì ngồi ở băng ghế đá, mắt ngước nhìn lên tượng Đức Mẹ. Ánh nhìn thoáng sầu bi và tín thác như ánh mắt người phụ nữ ơn phúc trên bức tượng cao kia.
Sau thánh lễ, cũng trước sân nhà thờ, người mẹ trẻ nói với tôi rằng, thực ra chị đang muốn thằng bé hòa nhập vào lớp giáo lý như các bạn đồng trang lứa. Nhưng có đôi khi nó “theo được”, đôi khi các sơ dù cố gắng cũng đành bất lực.
Thế mà chị vẫn khẳng định, chị sẽ kiên nhẫn cùng con mọi lúc. Chị thấy thằng bé tiến bộ khi đến nhà thờ. Chị chỉ mới theo Chúa từ khi có nó. Trước đó chị là người ngoại đạo. Ba thằng bé cũng vậy, chẳng biết Chúa là ai, nhà thờ ở đâu, nhưng sẵn sàng cho vợ ngày một buổi đều đặn đi dự lễ.
Từng ngày, từng ngày, chị chở nó tới nhà Chúa, ngồi trước thánh giá và dưới chân Đức Mẹ thầm thì nguyện cầu. Chị nói chị được ơn sống thanh thản. Chúa cất đi nỗi buồn và cho mẹ con chị hy vọng. Chị khoe với tôi thằng bé coi vậy mà thuộc kinh rồi, nó sắp được vỡ lòng. Tôi chúc mừng chị và vỗ vai thằng bé. Nó níu tay tôi và cười hiền lành thân thiện.
(Với cái cảnh này, nhiều người nhìn thấy chắc sẽ có suy nghĩ rằng: “Xem kìa, thằng cha ngó mặt mũi chán ngắt vậy mà sinh ra đứa con sáng sủa ghê!”)
Khi tôi viết những dòng này thì thằng bé đang chuẩn bị được lãnh Bí tích Thánh Thể. Trong các buổi lễ thiếu nhi, tôi thấy người mẹ trẻ đeo khăn quàng đỏ của giáo lý viên. Chị không đứng lớp dạy tụi nhỏ, nhưng sẽ phụ với các sơ và các giáo lý viên khác ổn định lớp học, dạy tụi nhỏ sốt sắng kinh nguyện. Chị luôn đưa mắt nhìn tôi với cái nhìn cảm kích, dù tôi chẳng nên trò trống gì, chỉ tình cờ trông con cho chị một thời gian ngắn từ khi cha lên bàn thờ đến lúc đọc nửa kinh Tin Kính mà thôi.
*
Ba mẹ em đã bỏ rơi em trong khi em cần sự nâng đỡ nhiều nhất.
Cái thai trong bụng em ngày càng lớn lên. Người tình bảo em rằng anh ta đã có gia đình và không thể bỏ gia đình nhỏ của mình để lo lắng cho em. Anh ta nhận lỗi và tỏ ra dằn vặt, nhưng không thể khác được. Anh ta cuối cùng cũng nói sự thật: không muốn có mặt đứa bé trên đời vì nó sẽ làm hỏng cuộc sống của cả hai. Nhưng em quyết lặng lẽ giữ đứa bé lại.
Trong căn nhà trọ mười hai mét vuông, cô tiểu thư Sài Gòn một mình đối diện với tất cả những khó khăn để đón đứa con bé bỏng chào đời. Cha em đau đớn nói rằng ông thấy xấu hổ với bà con dòng họ, xấu hổ với xóm giáo vì hằng ngày ông vẫn đi khuyên nhủ người nọ người kia về chuyện lề lối, nếp sống đạo đức, nay con gái ông đi ngược lại mọi thứ. Mẹ em khóc không thành tiếng khi đẩy em ra khỏi nhà và tìm cách lo cho em từ xa, chỉ vì bà không cất đầu nổi trong một xứ đạo mà người ta gắn kết với nhau không chỉ bằng những giá trị tương ái Chúa dạy mà còn bằng sự xoi mói xét nét của phàm nhân quanh quẩn.
Trong ăn phòng trọ, em tạm ẩn mình để giữ thanh danh cho gia đình. Em nói với tôi rằng, lúc đó em không thể trách cứ được ba mẹ. Em chỉ thấy cái lỗi của mình quá lớn để mọi người có thể chấp nhận và thứ tha. Và em phải gánh chịu nó một mình.
Đến tháng thứ hai mươi bốn thì thằng nhỏ mới được về nhà ông bà ngoại, được rửa tội và có tên thánh. Tôi hỏi em trong khoảng thời gian một mình đương đầu với sự cô đơn, bảo vệ đứa con nhỏ, em có cầu nguyện không. Em nói rằng em thở than với Chúa những lúc cảm thấy tuyệt vọng tận cùng, nhưng em không dám đặt chân đến nhà thờ. Em thấy mình như kẻ đã đánh vỡ những giá trị tốt lành mà Chúa ban tặng. Em cảm giác lỗi lầm đó không sao cứu vãn. Mặc cảm mỗi lúc mỗi lớn trong em cho đến một ngày người cha đau khổ tìm đến căn nhà trọ và khóc, bảo hãy mang thằng nhỏ về nhà với cha mẹ, hãy tha thứ cho sự nghiệt ngã của cha mẹ.
Đến lúc ấy em mới thấy mình có một con đường, một cơ may được Chúa tha thứ thông qua sự độ lượng của đấng sinh thành.
*
Tôi sẽ kể em nghe về chuyện này.
Tôi đã từng thấy nhiều gia đình sau ly hôn thì vợ chồng con cái bỏ luôn nhà thờ. Những sang chấn của sự tan vỡ, những thất bại trong hôn nhân khiến họ mệt mỏi và kiệt quệ. Niềm tin vào hạnh phúc và tình yêu thương từ đó cũng bị tổn thương. Nhưng hơn cả, thay vì mở rộng vòng tay đón nhận và động viên họ tiếp tục đời sống đạo đức, thì sự xét nét từ chính những người thân, cộng đồng trong một giáo xứ, sự phán xét nặng nề của cả cha xứ cũng làm cho họ cảm thấy tủi hổ, tự tách mình khỏi đời sống cộng đoàn.
Tôi lại nhắc đến một đoạn Kinh Thánh, đại ý Chúa nói rằng chính những người có bệnh mới cần đến thuốc chữa lành. Rằng vì thế mà tôi thấy Chúa hiện diện trong những cảnh đời bẽ bàng, tê tái và sầu thảm hơn những chốn vui vầy, mẫu mực và lộng lẫy.
Tôi an ủi em rằng, nếu có phiên tòa nhân danh hệ thống luật điều nào để đày ải, đánh gục tinh thần những con người vốn đã không may phải chịu tan nát trong đời, thì có lẽ đó chính là phiên tòa tàn nghiệt mà nhân gian tự đặt bày ra, chứ đâu phải phiên tòa được Chúa gởi đến, phải không?
Bây giờ thì em đã bình tâm sau những trải nghiệm sóng gió để đồng tình với những điều trái khoáy bạt mạng mà tôi chia sẻ.
Tôi sẽ lại kể em nghe câu chuyện đầu bài viết này. Chuyện một người mẹ ngoại đạo đã tìm thấy niềm vui thiêng liêng để đi qua nghịch cảnh, trong sự tín thác vô điều kiện. Chị và con chị vẫn lặng lẽ trong cuộc hành trình nội tâm thiêng liêng. Điều ấy chẳng phải là một niềm an ủi sống động để chúng ta tìm thấy con đường để chữa lành vết thương riêng hay sao?
Có những con chiên không hẳn đi lạc, không hẳn ngoan lành, nhưng là loài chiên lầm lũi, lặng câm và mang những vết thương cô độc giữa bầy đàn.
Tôi tin đó là loài chiên mà người mục tử yêu thương cách đặc biệt, em ạ.
Tùy bút của NGUYỄN VĨNH NGUYÊN
[Trích từ bản thảo Ngang qua Vườn Cây Dầu]
Bình luận