CÔNG GIÁO VỚI VĂN HÓA VIỆT NAM
Công giáo với văn hóa Việt Nam - Những biểu hiện của sự hội nhập
Hội nhập văn hóa Công giáo với văn hóa Việt Nam trước Công đồng Vatican II diễn ra theo chiều hướng tự phát của tín hữu, người Công giáo Việt Nam sống ở làng quê xứ, họ đạo có những cách sống đạo của họ. Trong cách sống đạo này, một mặt tín hữu vẫn làm tròn bổn phận niềm tin theo quy định của giáo quyền với điều tối quan trọng “Thờ kính Thiên Chúa trên hết mọi sự”, mặt khác do bị chi phối bởi tâm thức tôn giáo truyền thống của người Việt, người Công giáo có những biểu hiện niềm tin thể hiện qua việc thực hành một số nghi lễ, qua lối kiến trúc, qua một số hình thức nghệ thuật. Sau đây là một số khía cạnh cụ thể.
Hội nhập văn hóa thể hiện qua niềm tin vào Thánh nữ Maria, một số vị Thánh thông công, Thánh tử đạo và các vị thần linh ngoài Kitô giáo
Theo tín lý Công giáo, Thánh nữ Maria (Mẹ Thiên Chúa) và các Thánh thông công chỉ được thờ kính, và không trực tiếp ban ơn. Thánh nữ và các Thánh chỉ có vai trò trung gian “cầu bầu mà xin ơn Đức Chúa Trời” cho tín hữu. Song trên thực tế, người Công giáo Việt Nam đã chuyển hóa vai trò tôn thờ, cũng có nghĩa là chuyển hóa niềm tin vởi sự gia ơn của Thánh nữ và các thánh.
Về thờ phụng Thánh nữ Maria
Thánh nữ Maria được Giáo hội Công giáo Rôma tuyên xưng với các danh hiệu Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo hội, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Cầu nguyện, Mẹ Sầu bi, Mẹ Hằng Cứu Giúp, Mẹ Triều Thiên, Mẹ Mân Côi...
Một số danh xưng của Thánh nữ mang tính địa phương rồi lan truyền ra nhiều quốc gia theo Công giáo như Mẹ Lộ Đức (Pháp); Mẹ Fatima (Bồ Đào Nha).
Ở Việt. Nam, Thánh nữ có một số danh xưng như Mẹ Trà Kiệu, Mẹ Bãi Dâu, Mẹ La Vang... Nhưng trong dân gian phổ biến gọi Thánh nữ là Đức Mẹ, Đức Bà, Thánh Mẫu. Ở một số làng Công giáo vùng đồng bằng Bắc Bộ có kiệu vàng (kiệu sơn son thếp vàng) được gọi là Kiệu Đức Bà. Ngày đi kiệu có bát bửu một loại nghi cụ tế tự của làng giáo kế thừa làng lương đề bốn chữ Hán “phương danh Thánh mẫu” - Danh thơm Thánh mẫu. Sự chuyển hóa vai trò thờ phụng và niềm tin nơi Thánh nữ Maria thể hiện ở ba đặc trưng: Che chở, ban ơn, sinh sôi.
Che chở: Khi khó khăn gian khổ, nhất là thời kỳ cấm đạo, người Công giáo đều tìm đến cầu xin che chở cứu khổ, cứu nạn của Thánh nữ.
Ban ơn: Tín hữu Công giáo tìm đến Thánh nữ xin được ban ơn toại nguyện trong cuộc sống hằng ngày như no đủ, buôn may bán đắt, bình an, đi lại an toàn, khỏi bệnh tật, con cái học hành đỗ đạt...
Sinh sôi: Những tín hữu hiếm muộn con đến xin cho được sinh con, xin được sinh đẻ mẹ tròn con vuông, trẻ khó nuôi thì đem gởi cho Mẹ đến khi trẻ 13 tuổi thì xin về.
Tháng Năm - Tháng Hoa Đức Mẹ, được người Công giáo thực hành với nghi thức trang trọng mang nặng tính hội nhập.
Có thể có những cách lý giải khác nhau về vấn đề này, nhưng theo chúng tôi, người Việt Nam gia nhập đạo Công giáo nhưng thẳm sâu trong họ là tâm thức đa thần, trong đó có tâm thức tôn thờ Mẹ (Mẫu, Thánh Mẫu, Nữ thần) mà có nhà nghiên cứu gọi là Nguyên lý Mẹ. Mẹ là sinh sôi, nẩy nở; mẹ là khoan dung, che chở (phù hộ, hộ mệnh). Các nhà dân tộc học giải thích yếu tố thờ mẹ là tàn tích hay bản thân chế độ mẫu hệ tồn tại dai dẳng. Cuộc sống nông nghiệp coi trọng yếu tố Đất - Mẹ - Âm, thống nhất và đối lập với Trời - Cha - Dương.
Vai trò Mẹ, yếu tố Nữ xâm nhập vào nhiều tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam. Chẳng hạn Phật giáo vào Việt Nam sản sinh ra Phật giáo dân gian Việt Nam với hệ thống Tứ pháp (lôi, vũ, vân, điện) toàn nữ.
Với người Công giáo Việt Nam, Thánh nữ Maria trở nên thân mật, gần gũi như người bà, người mẹ luôn dang rộng cánh tay, luôn mở rộng tấm lòng đối với họ. Từ lâu, người Công giáo có một định niệm “Không việc gì đến với Mẹ mà không được toại nguyện”.
Việc thờ phụng các Thánh thông công
Một số vị thánh ở nhà thờ Công giáo được người Công giáo chức nghiệp hóa “quan phòng” một số lĩnh vực trong đời sống hiện thực của họ. Ví dụ:
Thánh Antôn cứu giúp người nghèo. Không ít người nghèo khổ tìm đến thánh Antôn để mong được ban ơn, cứu giúp thoát khỏi cảnh nghèo đói. Vì vậy ở một số nhà thờ Công giáo người ta đắp tượng thánh Antôn tay cầm bánh mì. Thật là một hình ảnh vừa gần gũi thiết thực, dễ hiểu, vừa mang tính tượng trưng sinh động. Tượng ở nhà thờ xứ Hàm Long (Hà Nội) là một ví dụ.
Thánh Rôcô chữa bệnh tật, tai ương, dịch hạch. Theo hạnh tích và ơn ích, thánh Rôcô khi còn sống đã có lòng thương giúp bệnh nhân. Trong quần thể thánh đường Phát Diệm có một nhà thờ để kính thánh Rôcô được gọi là nhà thờ Thánh Rôcô. Nhà thờ dựng năm 1895, nằm ở phía trái nhà thờ Trái Tim Chúa. Tiền thân đây là nhà thờ dựng lên để dâng kính thánh Gioan Tiền Hô. Cuốn sách Nhà thờ lớn Phát Diệm cho biết: Năm 1923, ở vùng Phát Diệm (Kim Sơn, Ninh Bình) có dịch tả lớn, giáo dân đến kêu cầu ông thánh Rôcô và khỏi bệnh. Vì vậy nhà thờ được đổi tên.
Thánh Martino trợ giúp tìm bắt kẻ gian, thu hồi của cải bị mất trộm. Có dịp đi thực tế ở nhà thờ Đa Minh (còn gọi là nhà thờ Ba Chuông) ở thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi chứng kiến cảnh đèn nến dưới chân tượng thánh Martino sáng rỡ. Bức tường phía sau nơi đặt tượng thánh Martino được gắn rất nhiều biển tạ ơn của tín hữu thu hồi được của cải mất trộm.
Việc thờ phụng các thánh tử đạo. Thánh tử đạo vốn là người Việt hoặc người nước ngoài trong thời kỳ phong kiến cấm đạo, do giữ vững niềm tin tôn giáo mà tử đạo nên được Giáo hội phong thánh. Một trong nguyên tắc để họ được phong thánh là họ phải có “phép lạ”. Do vậy thánh tử đạo nào cũng được dân gian thiêng hóa với hạnh tích và truyện truyền khẩu. Có những vị thánh như thánh tử đạo Phêrô Tùy được xứ đạo Bằng Sở (Hà Nội) xây hẳn một ngôi đền thờ. Hằng ngày không ngớt khách thập phương đến cầu xin ơn cứu giúp. Ở Hải Dương, người Công giáo xây riêng một ngôi đền tưởng niệm thánh tử đạo. Nhiều xứ, họ đạo xây đài tưởng niệm thánh tử đạo. Hầu hết nhà thờ Công giáo đều có tượng thánh tử đạo cho tín hữu kính lễ. Một số xứ đạo chọn thánh tử đạo làm thánh quan thầy dù là thánh người Việt hay người nước ngoài. Ví dụ xứ đạo Đồng Trì, một xứ đạo lâu đời thuộc giáo phận Hà Nội thờ thánh tử đạo có tên là Thánh Ven, một thừa sai ngoại quốc.
Tín hữu Công giáo thường tìm đến cầu nguyện xin ơn trước tượng thánh tử đạo.
Về điểm này có thể nói, người Công giáo Việt Nam đã ảnh hưởng sâu sắc việc thiêng hóa những nhân thần có công với cộng đồng cư dân làng nước, như những vị tổ làng, tổ nghề, những người xả thân vì nghĩa lớn trong tâm thức người Việt.
Việc thờ phụng thánh quan thầy xứ, họ đạo. Trong công cuộc truyền giáo phát triển đạo Công giáo ở Việt Nam, để lo việc giáo dân giữ đạo, bảo vệ đạo, các thừa sai đã lập ra các làng hoặc xóm, mà ở đó toàn bộ hay hầu hết cư dân gia nhập Công giáo được gọi là làng Công giáo toàn tòng. Do không thờ cúng tổ tiên nên người Công giáo ít quan tâm đến họ tộc (không lập gia phả, không xây từ đường). Vả lại không ít xứ, họ đạo là một cộng đồng mà các thừa sai “gom” các tín hữu ở lẻ tẻ các thôn xóm khác nhau lại. Điều này dẫn tới một thực tế mỗi xứ, họ đạo thường có nhiều họ tộc khác nhau. Trong điều kiện như vậy, những người trong cùng một họ đạo dù họ tộc của họ là Nguyễn, Trần, Đoàn, Lê... thì họ vẫn chung một “tộc sư”, đó là thánh quan thầy của họ đạo. Ngày kỷ niệm thánh quan thầy được gọi là ngày “giỗ họ”. Ngày này, một thánh lễ trang trọng được diễn ra. Nhiều họ đạo có điều kiện thường tổ chức ăn tiệc, tỏ rõ sự đoàn kết. Phải chăng khi dòng họ bị lu mờ, người Công giáo tìm ra một “kênh” riêng để khỏa lấp một mảng tâm linh truyền thống ?
Với làng Công giáo, thánh quan thầy được họ “chuyển hóa” thành thành hoàng làng như một vị bảo trợ tâm linh của làng Việt truyền thống. Ngày kỷ niệm thánh quan thầy thực sự là ngày hội của làng.
Niềm tin tôn giáo của giáo dân còn hướng vào một số vị thần linh ngoài Kitô giáo
Sống trong làng quê đất Việt, chịu ảnh hưởng sâu đậm tâm linh người Việt, người Công giáo Việt Nam trước Công đồng Vatican II ở nhiều làng quê, xứ đạo vẫn tham gia các nghi thức tưởng niệm người Công giáo mở đất, lập làng, tưởng niệm tổ nghề. Một số làng Công giáo thuộc huyện Kim Sơn (Ninh Bình) cư dân tham dự lễ giỗ các vị chiêu mộ, nguyên, thứ mộ (những người có công lập làng) thường được thờ ở miếu. Cư dân là người Công giáo ở Cồn Hến (Huế) còn tham dự lễ giỗ tổ nghề Hến... Những việc làm trên của tín hữu Công giáo không chỉ để tỏ lòng uống nước nhớ nguồn mà còn thể hiện sự đa phức trong tâm linh người Việt, dù họ là người theo Công giáo - một tôn giáo độc thần.
Do hội nhập mang tính tự phát của tín hữu, nên những biểu hiện niềm tin vào Thánh nữ Maria, một số vị thánh thông công, thánh tử đạo hay là niềm tin vào một số vị thần linh ngoài Kitô giáo ở mỗi vùng, miền, mỗi xứ, họ đao có sự khác nhau. Cũng có khi xứ họ đạo này thực hành nhưng xứ đạo khác có thể kề bên lại không thực hiện Vì vậy thật khó có một bức tranh toàn cảnh về vấn đề này.
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương
Bình luận