“Nếu tôi chạm vào gấu áo của Người thì tôi sẽ được khỏi bệnh” (Mc 5, 28). Sự đụng chạm này đã linh nghiệm. Người phụ nữ được chữa lành khỏi bệnh băng huyết. Sức khỏe của bà được phục hồi. “Người cầm lấy tay em bé và nói: Talitha kum… lập tức em bé đứng dậy và đi lại được” (Mc 5,41-42). Cái cầm tay này đã linh nghiệm. Em bé đã được hồi sinh. Ôi, có những cái đụng chạm tuyệt vời, những cái đụng chạm làm phát sinh điều tốt đẹp! “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: Ai đã chạm đến Ta?” (c. 31). Quả thật, trong một ngày, một tuần… không biết bao lần ta đụng chạm, tiếp xúc với tha nhân cách này hay cách khác. Có nhiều cái đụng chạm, tiếp xúc hóa thành sự gặp gỡ và phát sinh hiệu quả tốt đẹp; nhưng cũng có nhiều cái đụng chạm, tiếp xúc trở nên sự đụng độ và gây ra hậu quả chẳng hay. Khi sinh thời, rất nhiều người đã tiếp xúc với Chúa Giêsu và họ đã hưởng nhận biết bao ơn lành. Tuy nhiên, cũng không ít người tiếp xúc với Chúa mà kết quả xem ra xấu xa và tồi tệ hơn, chẳng hạn như phần lớn các luật sĩ, biệt phái… Có thể khẳng định, yếu tố khiến cho những sự tiếp xúc phát sinh những kết quả trái ngược như thế, là do ý hướng, thái độ của người tiếp xúc: tin tưởng hay hoài nghi vì đố kỵ.
“Này bà, lòng tin bà đã cứu chữa bà. Bà hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”. “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,34.36). Những lời của Chúa Giêsu nói với người phụ nữ bị băng huyết và với ông trưởng hội đường khiến ta liên tưởng đến lòng tin. Thật vậy, đọc Tin Mừng, ta nhận ra rằng chính bởi lòng tin của con người mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ để chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ, hay phục sinh kẻ chết... Hình như chỉ mỗi một lần Chúa biểu dương uy quyền để củng cố đức tin người ta, là làm phép lạ hóa nước thành rượu tại Cana. Nhưng xét cho cùng, phép lạ ấy cũng được xuất phát từ lòng tin của Mẹ Maria. Mẹ đã vững tin nên dù nghe câu trả lời như từ chối của Chúa Giêsu thì Mẹ vẫn dặn gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Niềm tin làm phát sinh nhiều hiệu quả tốt đẹp lạ thường, giúp ta vượt qua nhiều trở ngại, khó khăn. Niềm tin có sức chữa lành tật bệnh và khiến ta vui sống. Quả thật, nếu không có lòng tin ở nhau thì con người thật khó mà tồn tại và phát triển. Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đồ: Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải thì có thể lấp biển, dời non. Điều kiện có vẻ như tiên quyết mà Chúa Giêsu đòi hỏi ở những ai muốn Người thi ân giáng phúc, đó là tin vào Người.
Tin Mừng còn dẫn chứng cho rằng những người không tin vào Chúa Giêsu có thể nói là các thượng tế, luật sĩ và biệt phái. Dĩ nhiên không phải là tất cả, nhưng hầu như đại đa số trong họ. Một trong những nguyên cớ khiến họ không tin vào Chúa Giêsu, đó là lòng ghen tương đố kỵ. Sách Khôn ngoan nói rõ: “Chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (Kn 2,24). Vì lòng ganh tương đố kỵ mà nhiều người đang lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ dù có tiếp xúc với Chúa thì cả “những cái họ đang có cũng sẽ bị lấy mất”.
Ganh đua và ghen tị xem ra gần giống nhau ở đích nhắm. Cả hai đều không muốn kẻ khác hơn mình. Trong khi người ganh đua thì tìm cách học hỏi, nỗ lực rèn luyện… để vươn lên cho hơn người, thì kẻ ghen tị chỉ loay hoay tìm cách hạn chế, hạ bệ kẻ khác để họ phải thua mình, và không trừ một thủ đoạn nào. Như lời tác giả sách Khôn Ngoan thì đằng sau kẻ ganh tị luôn có bóng dáng của Thần Dữ, và hậu quả là “sự chết” cho cả hai.
Mẹ Hội Thánh, đặc biệt từ sau Công đồng Vatican II, luôn cổ võ tín hữu tích cực gặp gỡ, đối thoại với thế giới, với anh em khác đạo và với cả anh em vô thần (x.MV 92; TG 12). Ai cũng mong cuộc gặp gỡ, đối thoại giữa ta và tha nhân mang lại kết quả. Thánh Công đồng dạy rằng cần phải khiêm tốn lắng nghe trong chân thành và sẵn sàng đón nhận những khác biệt chính đáng của tha nhân. Để có được thái độ này, tiên vàn mỗi người phải có lòng tin vào tha nhân. Tin vào thiện ý và thiện chí của nhau là tiền đề của mọi cuộc tiếp xúc hay đối thoại.
Chúa Giêsu đã làm gương về thái độ này. Để khơi gợi lòng tin nơi những người gặp gỡ, Người đi bước trước bằng cách tin vào họ. Chính nhờ tin vào một chút thiện hảo nơi tấm lòng thiếu phụ Samaria bên bờ giếng Giacop, Chúa Giêsu đã đốt lên niềm tin của chị. Tin Mừng thứ tư đặc biệt nhấn mạnh đến chủ đề lòng tin. Những bài tường thuật về công việc của Chúa Giêsu, cũng như những bài diễn từ khá dài của Người, thường xoay quanh chủ đề lòng tin. Mặc dù thấy rõ sự cứng lòng tin của nhiều người Do Thái, nhưng Chúa Giêsu vẫn không ngừng rao giảng và dùng việc làm để minh chứng, cho ta thấy Chúa luôn hy vọng và tin tưởng. Chúa ban ơn tha thứ vì Người tin ở ta. Chúa không ngần ngại sửa dạy cả những người có chức quyền thời bấy giờ, vì Người tin tưởng sẽ có ngày họ đổi thay.
Giữa ta và anh chị em lương dân hay khác đạo, giữa ta với ta, bậc bề trên và người bề dưới trong đạo, điều lý tưởng là có sự tiếp xúc chứ không phải đụng độ, sự đối thoại chứ không phải đối đầu. Để lý tưởng này được hiện thực hóa, cần phải có lòng tin vào nhau. Những người biệt phái, tư tế, luật sĩ thời Chúa Giêsu thiếu lòng tin thường là do bởi lòng ghen tị, vì không muốn cái anh thợ mộc Giêsu này hơn mình hay qua mặt mình.
Lòng tin thường phát xuất từ tình yêu. Hiện thực cuộc sống cho ta thấy điều này: Tình yêu đến trước rồi đôi nam nữ dần tin nhau chứ không phải vì họ tin nhau trước rồi họ mới yêu nhau. Để xây dựng lòng tin, trước hết hãy có một chút tình. Ta hãy đi bước trước trong việc yêu thương như Chúa Giêsu yêu thương. Người không chỉ chăm sóc các môn đệ mà còn tìm mọi cách để cho các ông sinh hoa kết trái và tạo điều kiện để các ông “làm được nhiều việc lớn lao hơn cả những việc Người làm” (x.Ga 14,11-12). Nếu các tôn giáo không sợ chiêu mộ tín đồ của nhau, thì sự tiếp xúc, đối thoại chắc chắn sẽ hiện thực. Khi đã có lòng tin và thiện chí, sự gặp gỡ sẽ ở trong tầm tay, và kết quả là nhiều điều tốt đẹp sẽ diễn ra trước mắt chúng ta.
Linh mục Giuse Nguyễn Văn Nghĩa - GP Ban Mê Thuột
Bình luận