“Cuộc đời con người không phải là một hành trình đi từ chiếc nôi đến ngôi mộ, mà là đi từ hữu hạn đến vĩnh hằng”. Trên đây là câu nói của một bạn trẻ Công giáo trong một dịp hội thảo về ý nghĩa của cuộc đời. Chắc hẳn để có được câu nói này, các bạn trẻ, dù đang đối mặt với khó khăn khi hướng về tương lai, nhưng một cách nào đó vẫn có một khát khao cháy bỏng vươn lên và tồn tại.
Có cuộc sống đời sau hay không? Một nhóm người phái Sađốc đã đặt ra cho Chúa Giêsu một vấn nạn qua một câu chuyện tưởng chừng như bịa, nhưng không phải là không thể xảy ra.
Xét về mặt luận lý thì mọi người không thể phủ nhận một điều gì đó khi trí khôn chưa rõ hoặc hầu như khó mà hiểu biết thấu đáo. Chẳng hạn khi chưa hiểu rõ cấu trúc vận hành của một thiên thể hay một loại virus nào đó, thì không thể tiên thiên khẳng định là chúng không hiện hữu. Một số người chủ trương rằng cái gì hợp lý hay hữu lý mới hiện hữu, thì chỉ có thể hiểu sự hữu lý theo khía cạnh nội tại của chính hữu thể, chứ không phải theo lôgic của luận lý con người. Tuy nhiên ở đây, cần chân nhận một thực tế này: Nhiều người phủ nhận một sự thật nào đó không phải vì chính sự thật ấy xem ra không hữu lý, nhưng vì sự thật ấy đụng chạm đến lối sống của mình, và nhiều khi sự thật ấy một cách nào đó tố cáo lối sống chưa chính đáng và phải đạo của mình.
Nhóm Sađốc vốn là những người thuộc hàng tư tế chủ trương thỏa hiệp với chính quyền thời bấy giờ. Một khi lòng đã dính bén với của tiền, danh vọng đời này, thì ít có ai dám nghĩ đến ngày phải xa, phải mất chúng. Không tin vào sự sống lại, không tin vào sự sống ngày sau, thực ra nhiều khi chỉ là một cách biện bạch cho lối sống tham danh, hám lợi cách bất chính mà thôi. Nếu chết là hết, nếu không có đời sau, thì cớ sao không tìm mọi cách vơ vét của tiền, danh vị để hưởng thụ ở đời này?
Thế nhưng, những người chủ trương rằng không có đời sau thì dường như lòng họ vẫn mãi không yên. Ngay sự kiện họ cố tìm cách biện minh cũng đủ minh chứng cho sự thật này. Và đặc biệt những khi họ đối diện với sự dữ, nhất là khi nấm mộ gần kề, thì sự băn khoăn ấy càng mãnh liệt bội phần. Không, không một ai có thể dập tắt khát vọng sống mãi nơi lòng mình. Ngay cả những người tìm đến cái chết bằng sự tự vẫn thì cũng là một hình thái của khát vọng được sống tốt đẹp và vĩnh tồn mà không có lối thoát.
Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống. Một câu khẳng định rõ ràng về các hiện hữu, nhất là về sự hiện hữu của con người. Công cuộc của Đấng Hằng Sống phải là những gì mãi tồn tại. Dĩ nhiên hình thức tồn tại có thay đổi theo thời gian và theo quy luật Thiên Chúa đặt định. Ánh sáng đức tin qua Lời mạc khải cho các tín hữu thấy sự chết chỉ là cánh cửa để bước qua một cõi sống khác được gọi là sự sống đời sau. Đã có sự sống đời sau thì hẳn có sự sống lại, không phải là lấy lại sự sống như ở đời này, nhưng được biến đổi và theo một quy luật khác. Chúa Kitô dùng kiểu nói “như các Thiên Thần” để ám chỉ hình thái hiện hữu này. Khi đã tin có đời sau thì chắc hẳn phải tin có sự xét xử và thưởng phạt công minh.
Trong cuộc đời, cách sống và niềm tin có mối tương quan hữu cơ, và cách nào đó có thể gọi là tương quan biện chứng. Vì tôi tin chỉ có đời này mà thôi nên tôi phải tìm cách để tận hưởng các thiện hảo đời này bất chấp mọi phương thế, cho dù nhiều khi là bất chính. Trái lại, khi quá dính bén với những thiện hảo đời này và sẵn sàng chiếm hữu chúng cách phi pháp, thì tôi sẽ chủ trương rằng không có đời sau. Vì nếu có đời sau thì hệ lụy tất yếu đó là tôi phải trả lẽ về những gì tôi đã làm ở đời này.
Kitô hữu vẫn hằng tuyên xưng trong các thánh lễ Chúa nhật và lễ trọng: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy” (Kinh Tin Kính các thánh Tông Đồ), hay “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau” (Kinh Tin kính Nicêa-Constantinôpôli). Giữa lời tuyên xưng đức tin và cuộc sống đã có sự tương hợp thống nhất như thế nào? Cuộc đời các thánh, cách riêng các vị tử đạo là một lời tuyên xưng đức tin khả tín. Cả bảy anh em thời Macabêô và người mẹ đã anh dũng tuyên xưng đức tin về sự sống đời sau, khi chấp nhận trả giá bằng mạng sống của mình để trung thành với Thiên Chúa qua việc tuân giữ lề luật (x.2 Mcb 7).
Có thể nói rằng, một dấu chỉ không thể thiếu của niềm tin về sự sống đời sau, là can đảm đón nhận mọi gian khổ, biết sống tự do với những thiện hảo đời này, và sẵn sàng từ bỏ chúng khi sự thật, công lý và tình yêu đòi hỏi.
Một cuộc sống mà ngôn hành bất nhất thì chắc chắn thiếu sự khả tín, và dĩ nhiên là không đáng kính mà nhiều khi còn bị dè bĩu, không trước mặt thì cũng sau lưng. Phải thú nhận rằng đang tồn tại hiện tượng nghịch lý và nghịch thường, đó là những người tuyên xưng có linh hồn bất tử, thân xác sẽ sống lại, tuyên xưng có sự sống đời sau thì lại sợ khó, ngại khổ, không dám mạnh mẽ rao truyền chân lý, chưa sẵn sàng từ bỏ chút danh vị hay quyền lợi để sống giới luật mới, giới luật yêu thương mà Chúa Kitô đã truyền.
Xin thử hỏi rằng chúng ta đã sẵn sàng từ bỏ những quyền lợi, danh vị của mình để sống yêu thương phục vụ tha nhân, phục vụ người nghèo, người khốn khổ, bất hạnh, bị áp bức, bị bỏ rơi… trong xã hội và trong Giáo hội như thế nào? Thành thực trả lời những câu hỏi này thì mỗi người sẽ biết mức độ của lòng tin vào Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống như thế nào, và sẽ biết niềm tin của mỗi người về sự sống ngày sau ra sao.
“... Một dấu chỉ không thể thiếu của niềm tin về sự sống đời sau đó là can đảm đón nhận mọi gian khổ...” |
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
GP Ban Mê Thuột
Bình luận