Phát dẫn (Đưa tang): Khi thánh lễ kết thúc, linh cữu được di quan ra khỏi nhà thờ để đưa đi an táng. Từ thời điểm này, việc đưa tang mới thật sự bắt đầu. Ở các thành phố lớn, nơi giáo xứ không còn chỗ chôn cất, người tín hữu đã qua đời được hỏa táng rồi đặt tro cốt trong Nhà chờ Phục Sinh. Việc di quan cũng diễn ra bằng phương tiện giao thông hiện đại và nhanh gọn như lúc động quan. Còn ở vùng nông thôn có Đất Thánh riêng, thường cách nhà thờ không quá xa, thì việc di quan sẽ diễn ra một cách chậm rãi và tuần tự, mang dáng dấp của một đoàn đưa tang truyền thống.
Theo Đất lề quê thói của Vũ Văn Khiếu, thứ tự đầy đủ của một đoàn đưa tang lớn như sau: Đi đầu là hai phương tướng có mặt mày dữ tợn, cầm khí giới mở đường. Phương có thể làm bằng nan tre phủ giấy hoặc do người đóng giả. Theo sau là thể kỳ bằng vải trắng, minh tinh bằng lụa đỏ ghi chức tước, tên húy và tên hiệu của người quá cố. Khi viết phải tính số chữ giống như lúc viết bài vị, nghĩa là đếm từng chữ theo vòng quỷ - khốc - linh - thính sao cho chữ cuối cùng rơi vào linh hoặc thính. Đối với gia đình không có điều kiện thì minh tinh chỉ là một tấm giấy đỏ ghi chữ trắng do một người cầm. Sau đó còn có hương án và thực án bày đồ cúng tế. Nối gót là đoàn người cầm những bức trướng người thân, bạn hữu phúng viếng. Nhà giàu còn có thêm các đồ nghi trượng như cờ, biển, võng, lọng… Còn không thì chỉ có đội kèn trống rồi đến linh xa bốn người khiêng, bên trong để hồn bạch (tượng trưng cho linh hồn người đã khuất), bát hương, bình hoa và đèn nến. Tiếp đó là đại dư đặt linh cữu do tám người khiêng, trang trí cầu kỳ, có thắp bảy ngọn nến hình Bắc đẩu thất tinh phía trên quan tài. Cuối cùng là là gia quyến và người đưa tang vừa đi vừa khóc lóc và rắc vàng mã, tiền giấy. Tục xưa đưa đám đi thật chậm để biểu lộ sự lưu luyến, không đành mai táng cho nhanh. Người bình dân thì đoàn đưa tang sẽ đơn giản hơn, còn nhà theo Phật giáo thì có thêm người đi tụng kinh niệm Phật, gọi là đi hộ phúc.
Ghi nhận thực tế thì đoàn đưa tang của người Công giáo Việt Nam đã có những thay đổi cho phù hợp với đời sống đức tin, tạo thành một cuộc rước vừa mang dáng dấp truyền thống, vừa gần gũi với cuộc rước nhập lễ (Processio). Đi đầu là thừa tác viên cầm bình xông hương, thánh giá và đèn chầu. Rồi đến đoàn người, những bức trướng và vòng hoa phúng điếu. Theo sau là đội kèn trống tùy theo phong tục từng địa phương. Sau đó là linh mục cùng các thừa tác viên. Rồi đến nhóm con cháu cầm bảng tên thánh, di ảnh, bát hương và thánh giá ghi thông tin người mất. Tiếp theo linh cữu được đặt trên xe tang. Và cuối cùng là tang quyến cùng cộng đoàn.
Người Công giáo không rắc vàng mã, nhưng khóc than thì khó lòng tránh khỏi. Trong giây phút tiễn biệt, tâm trạng người tín hữu thường giằng co giữa một bên là nỗi đau mất mát, một bên là niềm tin vào việc sẽ gặp lại người thân trong Nước Trời. Thành ra, so với đám tang truyền thống thì đám tang Công giáo Việt Nam đã đỡ phần bi lụy, không còn tục lăn đường (lăn ra đường mà khóc lóc thảm thiết), nhưng cũng chưa thể im lặng, trang nghiêm như ở Tây phương.
Làm phép huyệt mộ: Trước khi hạ huyệt, người Việt xưa có tục tế thổ thần, cầu xin cho người quá cố được yên nghỉ đời đời trong phần đất do vị thần ấy cai quản. Người Công giáo trước khi hạ huyệt có làm phép huyệt mộ, nhưng nghi thức ấy mang một ý nghĩa hoàn toàn khác. Việc làm phép nhằm thánh hóa nơi an nghỉ và nhắc nhở những người tham dự rằng mộ phần không phải là nơi an nghỉ vĩnh hằng, mà chỉ là chốn tạm của thân xác để chờ ngày Đức Kitô trở lại trong vinh quang.
Sau khi hạ huyệt, tang quyến và người theo đưa tang mỗi người cầm một nắm đất cát thả xuống thay cho lời từ biệt. Tục này, người Việt xưa gọi là dong nhan. Sau đó, đội an táng lấp đất, đắp mộ rồi dựng cây thánh giá có ghi thông tin người quá cố làm bia tạm, trong lúc chờ xây dựng mộ phần kiên cố.
6.4 Những phong tục sau khi đã an táng
Văn hóa Việt Nam trọng âm, đặt nặng đời sống tâm linh, nên sau khi an táng thì vẫn còn nhiều phong tục tiếp nối. Đầu tiên là Ngu tế, một nghi lễ quan trọng nhằm xoa dịu hồn phách của người mới mất (ngu nghĩa là yên), vì lo người ấy vẫn còn chưa an lòng mà rời xa dương thế. Lễ này thường diễn ra trong ba ngày, thậm chí có khi còn trọng hơn cả lễ an táng. Sau đó là lễ Tam chiêu (mở cửa mả), bắt nguồn từ quan niệm người mất khi chôn xuống đất sẽ còn quanh quẩn nơi mồ mả, cần làm lễ tế để mở đường cho họ đi siêu thoát. Ngoài ra, người Việt duy trì hệ thống các kỳ giỗ rất chặt chẽ gồm: Chung thất (49 ngày sau khi mất), Tốt khốc (nghĩa là thôi khóc, 100 ngày sau khi mất), Tiểu tường (giỗ đầu, 1 năm sau khi mất), Đại tường (mãn tang, 3 năm sau khi mất) và Đàm tế (lễ bỏ tang phục, 2 tháng sau Đại tường). Sau Đại tường thì hằng năm đều làm giỗ vào ngày mất của người quá cố. Trong khi đó, ngày sinh của người còn sống vốn chỉ được tổ chức vào các dịp đặc biệt như thôi thôi hay thượng thọ. Chỉ từ khi văn hóa Tây phương du nhập, việc mừng sinh nhật mới dần trở nên phổ biến, song vẫn chưa phải là thói quen của mọi gia đình.
Người Công giáo nhìn chung không còn giữ lệ cúng vái vì tin rằng người chết không thể ăn đồ cúng hay mang theo của cải. Thay vào đó, người Công giáo tập trung vào việc xin lễ và đọc kinh cầu nguyện cho người mới mất. Sau đám tang, giáo họ và các hội đoàn thường thay phiên nhau đến nhà đọc kinh, mỗi đơn vị một vài hôm. Nếu không có đơn vị nào đến thì chính gia đình sẽ tự tổ chức, với sự góp mặt của bà con hàng xóm. Có gia đình duy trì việc đọc kinh đều đặn mỗi tuần cho đến khi đủ 100 ngày. Đây là một phong tục chỉ có ở người Công giáo, giản dị mà sâu sắc, vừa đem lại ơn ích thiêng liêng cho linh hồn người đã khuất, vừa nuôi dưỡng tình làng nghĩa xóm và mối dây liên kết cộng đoàn.
Đối với các kỳ giỗ thì người Công giáo thường xin một thánh lễ để cầu nguyện cho người đã khuất, rồi họ hàng thân thuộc cùng nhau ăn một bữa cơm tưởng niệm, quây quần trong không khí gia đình. Ở nhiều nơi, người Công giáo cũng còn giữ tục ăn uống vào dịp Tam chiêu hay Tốt khốc. Riêng với Tiểu tường thì nhiều gia đình xem đây là dịp để đền ơn đáp nghĩa những người đến phúng điếu và giúp đỡ trong lúc có tang, nên bày tiệc ăn uống linh đình.
6.5 Kết luận
Qua những phân tích và đối chiếu ở trên, có thế thấy tang lễ Công giáo Việt Nam là sự kết hợp giữa những nghi thức được cử hành dưới sự soi sáng của đức tin và những phong tục tập quán chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa cổ truyền. Chính sự giao thoa ấy đã tạo nên một bản sắc rất riêng, chỉ có nơi cộng đồng Công giáo Việt Nam. Trong đó, có những phong tục tập quán tốt đẹp cần được bảo tồn và phát huy, và cũng có những tập quán nên được điều chỉnh để phù hợp hơn với tinh thần Kitô giáo.
KỲ PHONG
Bình luận