Khi ta đi ăn tiệc tại nhà một người bạn và gặp một món ăn không được ngon lắm. Nhưng chủ nhà giới thiệu đây là “cây nhà là vườn”, điều đơn giản ấy tức khắc làm cho món ăn không ngon lành đó trở thành quý; vì như thế là ta được tham dự vào đời sống, được chia sẻ hành trình sống của của gia chủ.
Cũng thế, một món quà mọn, được dâng tặng với cả tấm lòng thành, sẽ trở nên quý giá; và người nhận được món quà ấy, nếu có đủ tấm lòng như một con người chân chính, sẽ đón nhận được tính cách quý giá ấy trong niềm vui. Thật ra, trong mức độ sống của con người, giá trị của một sự vật không hoàn toàn lệ thuộc vào giá trị tự thân của chính sự vật ấy, nhưng còn do ý nghĩa mà con người ban tặng cho nó. Đó là cách thức sống siêu việt của con người, nơi đó, con người trao đổi tình nghĩa với nhau chứ không phải phân chia để hưởng thụ sản phẩm; nơi đó, chính tấm lòng của con người được gởi vào các sản phẩm là điều quan trọng hơn, và đôi khi có thể làm cho các sản phẩm ấy trở nên tuyệt đối.
Một người chồng, trong khi cãi nhau với vợ rồi người vợ giận dỗi quăng chiếc áo khoác ra khung cửa sổ của tòa nhà cao tầng, anh ta đã lao ra cửa để chụp lại chiếc áo đến nỗi suýt rơi xuống đất. Khi người ta hỏi tại sao lại mạo hiểm như thế vì một cái áo, anh ta trả lời đó là chiếc áo của mẹ tặng cho. Chiếc áo ấy không phải là cái áo quý giá do chất liệu, do kỹ thuật, do giá cả; nhưng do tấm lòng của mẹ con hai người ấy với nhau.
Con người được Thiên Chúa sáng tạo nên để sống với Chúa và sống với nhau. Đó là vận mạng sống trong yêu thương và sống vì tình yêu thương. Sứ mạng xây dựng thế giới yêu thương lớn hơn và bao hàm sứ mạng làm chủ trái đất. Trình thuật sách Sáng Thế cho thấy Adong được Chúa đặt vào vườn địa đàng để “đặt tên” cho muôn loài. Theo quan niệm của người Do Thái, “đặt tên” nghĩa là làm chủ. Như thế, con người được trao nhiệm vụ làm chủ trái đất. Con người được quyền thống trị, khai thác, hưởng thụ những sản phẩm từ vũ trụ này. Tuy nhiên, Sách Thánh lại cho thấy, sau khi làm chủ tất cả mọi sự trong vườn địa đàng, Adong cảm thấy buồn vì không gặp được người trợ tá tương xứng. Rồi chỉ khi gặp được Evà thì ông mới kêu lên được tiếng reo vui của phận người (x. St 2,18-24). Đó là một bước nhảy con người cần phải vượt qua trên hành trình làm người; vượt qua từ niềm vui chiếm hữu sự vật, từ niềm vui làm chủ của cải, để đi đến niềm vui gặp gỡ con người với nhau trong yêu thương. Chưa làm được cuộc vượt qua này, con người chưa phải là kẻ trưởng thành. Chưa làm được cuộc vượt qua này, con người vẫn còn lẩn quẩn trong việc đi tìm sự sung sướng và chưa biết nếm cảm hạnh phúc đích thực. Như thế, theo quan điểm Kitô giáo, con người lao động, con người hưởng thụ, con người thống trị… chưa phải là con người đích thực. Con người cần lao động, con người cần khai thác và hưởng dùng những sản phẩm của thiên nhiên, nhưng đó không phải là lẽ sống của con người mà chỉ là phương tiện để con người góp phần xây dựng tình yêu thương. Trong chính quá trình lao động ấy, con người được kêu gọi để cộng tác với nhau; và khi hoàn thành được sản phẩm, lại được kêu gọi để sẻ chia cho nhau những thành quả ấy. Như thế, sản phẩm có tính sự vật trong lao động chỉ có ý nghĩa khi được con người sử dụng trong tương quan yêu thương, nghĩa là sử dụng như món quà của tình nghĩa để trao tặng cho nhau.
Quả thật, mọi sản phẩm của con người, dù có được nắn nót đến đâu cũng không bao giờ có thể trở thành tuyệt đối, cho đến khi chúng trở thành một món quà để con người trao tặng cho nhau. Nếu không được trao tặng và lãnh nhận, những sản phẩm ấy vẫn là những “vật liệu thô”, không đầy đủ ý nghĩa, không có giá trị tự thân. Ngược lại, một sản phẩm của con người, dù tầm thường đến đâu, khi được trao tặng với tấm lòng, nó hoàn thành ý nghĩa của nó, tức là trở nên nhịp cầu để con người đến với nhau; và trở nên quý giá thật sự khi người ta gặp được tấm lòng của nhau trong sản phẩm ấy. Con người chỉ sử dụng sự vật như phương tiện để diễn tả bản thân, chứ không được giản lược bản thân vào trong sự vật. Quy luật sống của con người là biết sử dụng vật chất như nhịp cầu để nối kết bản thân của mỗi người với bản thân của người khác. Khi ta thành tâm dâng tặng một món quà, món quà đó không còn là nó nữa, nhưng đã biến nên một giá trị nhân văn, đó là dâng tặng một phần bản thân của mình cho người khác.
“Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người”. Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu vậy; tuy nhiên, vẫn còn niềm trông cậy là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang. Thật vậy, chúng ta biết rằng: “Cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng : chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa”. (Rm 8, 19-23)
Như thế, cách thức chính yếu để con người thống trị vũ trụ không phải chỉ là khai thác vũ trụ, nhưng tiếp theo đó, còn là đưa nó vào thế giới nhân văn, làm cho nó trở thành là phương tiện cho con người sống tình yêu thương với nhau. Dâng tặng chính là cách thức sử dụng sự vật; dâng tặng là làm trọn hảo mọi sự trong thế giới này; dâng tặng chính là đưa sự vật vào trong tương giao yêu thương của con người.
“Của ít lòng nhiều” đó không phải chỉ là cách thức “cười trừ” khi mà không có gì đáng giá để trao tặng cho nhau, nhưng chính là ý nghĩa thâm sâu của phẩm giá con người. Điều này chẳng những là một giá trị nhân văn, nhưng còn là chính ý nghĩa sâu xa của mặc khải Kitô giáo: trong nhiệm cục mặc khải, Thiên Chúa mạc khải chính bản thân Ngài qua Lời Chúa và Hành Động; và con người đón nhận hành động và lời nói của Ngài không phải chỉ như những “sự vật”, nhưng như chính bản thân của Chúa, như chính tình yêu của Chúa dành cho bản thân mình.
Linh mục Giuse Nguyễn Trọng Viễn, dòng Ða Minh
Bình luận