Ở trung tâm Sài Gòn thập niên 1960, tuy có sự hiện diện rất đường bệ của hãng Thành Lễ với phòng trưng bày lớn trên đường Tự Do (nay là Đồng Khởi), các cửa hàng mỹ nghệ cao cấp chuyên bán cho khách nước ngoài còn bày bán những bức tranh sơn mài có tính mỹ thuật cao, chất lượng tốt của xưởng Trần Hà, công ty Mê Linh… Tuy vậy, vẫn có một hiệu tranh sơn mài chen vào được vào trong số tranh bày bán trong tiệm trên đường này, đó là tranh của xưởng Cảnh An ở Thủ Dầu Một.
Cảnh An không phải là cái tên quen thuộc trong giới sưu tầm tranh sơn mài miền Nam. Những tác phẩm cuối cùng ký tên Cảnh An đã xuất xưởng từ hơn nửa thế kỷ qua và ngưng hẳn từ 1970. Nhưng, qua vài bức sơn mài còn sót lại của người chơi tranh, có thể khẳng định đó là một dòng tranh đẹp, không có khoảng cách xa so với tranh sơn mài mỹ nghệ của hai đại gia hàng mỹ nghệ miền Nam trước 1975 là Thành Lễ và Trần Hà. Vì có chất lượng cao, đậm tính mỹ thuật, tranh Cảnh An được bày bán trong các cửa hàng lớn trung tâm Sài Gòn trước đây như tiệm Laudine, tiệm Nguyễn Oanh, tiệm Thẩm Oánh trên đường Tự Do (nay là Đồng Khởi), tiệm Diệp Thiêm trên đường Tạ Thu Thâu (nay là Lưu Văn Lang) và một số tiệm trên đường Gia Long (nay là Lý Tự Trọng), Lê Thánh Tôn…
Gốc gác dòng tranh
Với việc thành lập trường Mỹ nghệ bản xứ Thủ Dầu Một (École d’art indigène de Thu Dau Mot) năm 1901 (dân gian thường gọi là trường Bá nghệ Bình Dương), mục đích đào tạo thợ mỹ nghệ phục vụ đời sống thuộc địa ở Nam kỳ, người Pháp đã cho ra trường một lớp họa sĩ và nghệ nhân tài năng, tạo dựng được những hãng xưởng mỹ nghệ tốt nhất miền Nam hậu thuộc địa. Sau này, sản phẩm của họ đã khiến những người châu Âu thích thú tìm mua mang về nước. Từ năm 1943, xưởng Thanh & Lễ thành lập từ hai học sinh của trường là Nguyễn Thành Lễ và Trương Văn Thanh, là tiền thân của sơn mài Thành Lễ sau này. Có thể xưởng sơn mài Trần Hà cũng bắt đầu từ trước 1945, sau khi người sáng lập là họa sĩ Trần Hà tốt nghiệp trường Mỹ thuật Đông Dương năm 1935. Họ đều khởi nghiệp từ Bình Dương, cái nôi của sơn mài miền Nam. Ngoài ra, vẫn có những xưởng nhỏ tuy không nổi tiếng nhưng luôn có những sản phẩm đẹp và bền. Xưởng sơn mài Cảnh An nằm trong số đó.
Cuối thế kỷ 19 ở làng Tân An, xã Bến Thế thuộc Thủ Dầu Một có vị đông y sĩ tên Từ Văn Đồng (tự Kiều). Ông là nhà Nho nhưng biết xem mạch, viết toa thuốc Nam chữa bệnh; biết cả việc coi tuổi, coi ngày tốt xấu... Con trai ông là Từ Văn Xẩn, sinh năm 1914. Được đi học tiếng Pháp, được cha dạy chữ Nho nhưng khi lớn lên, ông Xẩn xin vào học nghề Mộc trường Bá nghệ Bình Dương khoảng năm 1930, vì muốn có một nghề chắc chắn. Ông chỉ học hai năm ở đó, lập gia đình và đi làm ở Kho xăng Nhà Bè. Đến năm 1945, chiến tranh bùng nổ, ông xin nghỉ về quê lánh nạn.
Lập xưởng
Trong thời gian ở quê, ông Xẩn ấp ủ mong muốn phát triển một nghề đang thịnh là làm sơn mài mỹ nghệ. Điều đó xuất phát từ cảm xúc khi còn học trường Bá nghệ, được ngắm nhiều tác phẩm đẹp của lớp sơn mài trong trường. Chiến tranh lắng xuống, khoảng năm 1947-1948, ông cho ra đời xưởng sơn mài của riêng mình, lấy tên hai cô con gái là Từ Thị Cảnh và Từ Thị Yên (An) đặt tên xưởng là Cảnh An. Tên xưởng hàm ý đề cao cảnh thanh bình của làng quê, là chủ đề thường dùng trong loại tranh này. Xưởng là căn nhà dài khoảng 20 mét, bề rộng chừng 8 mét, tại số nhà 13 đường Chánh Hiệp (nay là đường Ngô Chí Quốc), thuộc xã Chánh Hiệp, quận Châu Thành, Thủ Dầu Một, sát bên nhà ông ở.
Theo trí nhớ của anh Từ Minh Tâm, con trai ông Xẩn, để ra sản phẩm, vật liệu đầu tiên để làm vóc là gỗ mít. Khi làm tranh lớn thì dùng ván ép, rồi bọc thêm hai lớp vải và dùng sơn để dán vào thân gỗ, nhờ đó tranh không bị cong vênh khi thay đổi nhiệt độ. Các loại sản phẩm khác như dĩa, chén uống trà, bình hoa, hộp đựng đồ trang sức... thì có người tiện sẵn đem đến bán và cũng làm bằng gỗ cây mít. Thời gian đầu xưởng dùng sơn Phú Thọ từ miền Bắc đưa vào bán trong Nam. Sau năm 1954, đất nước bị chia cắt thì ông Xẩn mua sơn Nam Vang từ Cam Bốt đem về. Thùng sơn gốc thường khoảng 5 lít, mua về phải chế biến thêm mới dùng được. Do sơn là chất khá độc nên khi pha có thợ bị dị ứng nặng nề, mặt sưng lên từng cục.
Xưởng còn dùng nhiều vật liệu trang trí khác như vỏ trứng, ngà voi, ốc xà cừ, vàng lá… để cẩn hay phủ lên những chỗ cần thiết, tạo cho bức tranh vẻ đẹp sang trọng. Một bức tranh được thực hiện qua nhiều công đoạn trong thời gian khá dài, từ bốn tới tám tuần mới xong. Đó là điều bất lợi cho việc sản xuất. Đôi khi người đặt hàng ở Sài Gòn cần gấp, nếu làm không kịp thời gian quy định, khách quay về nước là công toi, hàng tồn sẽ khó bán vì mỗi người nếu đã đặt là thường theo ý thích riêng.
Do quy mô nhỏ nên nhân công của xưởng không nhiều, chỉ có từ 10 đến 15 người. Vẽ giỏi nhứt là anh Tư Cấm, người ở xóm Giếng Máy. Những người khác là anh Ba Tùng, cô Hai (ở Chùa Hang), Út Nhỏ, anh Cộng. Hồi đó, cùng thời với sơn mài Cảnh An có những nghệ nhân khác như các ông Ba Phát Thạnh (xóm Miễu Tử Trận), Năm Chước, Ba Tèo, Năm Nghĩa (chợ Cũ)… Họ vẫn lui tới chuyện trò với ông Xẩn và nhận hàng về gia công, hay có khi ngược lại. Cảnh An không có phòng trưng bày ở Bình Dương, vì sản phẩm chỉ đem bán ở Sài Gòn, nên thậm chí ở tỉnh nhà cũng ít người biết. Rất tiếc là dù tranh của Cảnh An vẽ theo nhiều mẫu khá đẹp, nhưng anh Minh Tâm không biết được ai là người tạo mẫu, chỉ thấy những người thợ ở xưởng sơn mài vẽ lại theo mẫu có sẵn. Cả bảy người con của ông Xẩn không ai theo nghề của cha nên không ai rõ điều này.
Sản phẩm của xưởng sơn mài Cảnh An làm ra đa dạng đề tài. Tranh thì có cảnh đồng quê Việt, bộ tứ bình “mai - lan - cúc - trúc”, hay “ngư - tiều - canh - độc”. Tất nhiên cũng có loại tranh cá vàng là loại sản phẩm độc đáo của sơn mài Bình Dương: cá được vẽ ẩn dưới lớp sơn, để lâu càng ngày cá hiện ra thêm rõ; tranh “tùng lộc - mai điểu”… Có tranh vẽ và cũng có tranh cẩn ốc, cẩn trứng. Cảnh đồng quê được vẽ xong thì dùng vàng để phủ lên. Tranh sơn mài của Cảnh An thường có chữ ký của hãng ở góc dưới, khi thì bằng tiếng Việt, cũng có khi bằng chữ Nho (có người chuyên môn đọc được là Thủ Dầu Một, Cảnh An tạo). Ngoài tranh còn có hộp nữ trang, bình hoa, án gió… sơn mài. Nếu có người đặt hàng thì Cảnh An còn có thể sản xuất cả tủ thờ, tủ cẩn ốc, bàn ghế salon …
Sau khi mở ra, công việc làm ăn rất thuận lợi. Ông Xẩn đã có thể mua xe ô tô để đi giao sản phẩm ở Sài Gòn. Cứ vài tuần, ông đi Sài Gòn nhận đặt hàng và giao hàng. Ở thập niên 1950, có xe ô tô riêng là thuộc hàng khá giả, ở xã Chánh Hiệp, Bình Dương chỉ có gia đình Đông y sĩ Lâm Văn Luận (tức ông Cả Luận) và ông Xẩn có xe hơi riêng.
Đầu thập niên 1950, sản phẩm Cảnh An bán rất chạy. Lúc đó quân đội Pháp chuẩn bị rút quân về nước, họ muốn mua những sản phẩm địa phương để làm kỷ niệm. Hàng hóa bán tốt, cuối năm ông Xẩn thưởng cho anh em công nhân khá khẩm, khi thì chiếc đồng hồ đeo tay (lúc đó rất có giá trị), khi thì tiền mặt… Châm ngôn của ông là “lao tư hợp tác”, nghĩa là lao động và tư bản cùng nhau làm việc. Ông chủ có tiền thì nhân công cũng được chia phần. Nhân một cuộc triển lãm Mỹ thuật ở Sài Gòn trong thời gian này, xưởng Cảnh An cũng tham gia một gian hàng để trưng bày sản phẩm của mình.
Dầu vậy, không phải lúc nào mọi chuyện đều suôn sẻ. Năm 1954, ông bị tai nạn do tránh một xe nhà binh ở cầu Vĩnh Bình chỗ ranh giới Bình Dương - Sài Gòn mà lạc tay lái, xe rớt xuống sông. Ông bị gãy chân phải nằm bệnh viện một thời gian dài. Chiếc xe hư hỏng hoàn toàn. Họa vô đơn chí, cũng năm đó, sau Hiệp định Geneva, người Pháp rút đi, hàng sơn mài thiếu nơi tiêu thụ, ông Xẩn lại không khỏe nên việc sản xuất bị chậm lại. Đơn hàng đặt không dồi dào như trước, xưởng làm cầm chừng. Rồi thì cơ hội lại đến một lần nữa. Đó là lúc có một tiệm mới khai trương ở đường Lê Thánh Tôn. Họ không đủ vốn để mua hàng Thành Lễ và Trần Hà nên đặt xưởng Cảnh An làm rất nhiều sản phẩm. Điều này chứng tỏ sơn mài Cảnh An có chất lượng đủ thay thế hàng của thương hiệu lớn để bày bán ở các cửa hàng trung tâm. Cảnh An lại có lợi thế là nếu mẫu mã có kém hơn một chút nhưng giá cả dễ chịu hơn, nên giới trung lưu vẫn có thể mua được. Các tiệm bán đồ mỹ nghệ, lưu niệm ở Sài Gòn như Laudine, Thẩm Oánh, Đức Lợi, Diệp Thêm... sau này chủ yếu mua hàng của Cảnh An, vì thương hiệu nổi tiếng giá cao hơn nhiều. Nhưng rồi đến thời điểm chiến tranh khốc liệt, các công nhân trẻ phải đi lính, do đó hãng thiếu người làm đến nỗi phải đóng cửa đầu thập niên 1970. Một số hàng tồn vẫn có người tìm đến mua. Đặc biệt, có một vị bác sĩ người Philip-pines là con rể của ông chủ tiệm billiard Chiếu trên đường Ngô Quyền rất thích sơn mài của Cảnh An. Ông mua nhiều hàng sơn mài của xưởng để đem về nước làm quà tặng. Sau khi Cảnh An ngưng sản xuất, chỉ có anh Tư Cấm là thợ chánh của xưởng ra làm riêng. Sau năm 1975, có người rủ ông Xẩn tái lập xưởng sơn mài, nhưng lúc đó phải vào tổ hợp, hợp tác xã…, tuổi cũng bắt đầu cao, con cái lại không theo nghề, nên ông từ chối và sơn mài Cảnh An không có cơ hội sống lại.
Ông Xẩn mất năm 1996. Trong ký ức của anh Minh Tâm, cha anh là người hiền lành chất phác, yêu công việc. Ông biết chữ Nho, tiếng Pháp, biết chút ít tiếng Quảng Đông đủ để giao dịch mua bán, đã để lại một thương hiệu sơn mài được sản xuất cẩn thận, đúng bài bản để có chất lượng tốt không thua hàng các xưởng lớn có tiếng, nhưng bán với giá nới hơn, chủ yếu lấy công làm lời.
Tiếng vọng từ giới sưu tầm
Thỉnh thoảng anh Minh Tâm vẫn nhận thư của những nhà sưu tầm yêu thích tranh sơn mài của Cảnh An. Một người gởi cho anh bức tranh “Bến đò” của ba anh thực hiện. Khi nhìn ảnh chụp bức tranh và yêu cầu nhận xét tranh của chủ sở hữu, anh viết: “Tự nhiên tôi lại trở thành một người đánh giá tranh sơn mài của ba tôi, trong khi tôi không phải là một người chuyên môn trong lãnh vực này. Dù sao, khi nhìn thấy sản phẩm sơn mài Cảnh An xưa, tôi cũng có nhiều xúc động và có nhận định riêng của mình: Bức tranh Bến Đò có hàng chữ “Cảnh An Laques, số 13 đường Chánh Hiệp, Thudaumot” là địa chỉ nhà tôi vào thời Pháp, xưa lắm rồi. Tôi còn không nhớ số nhà nữa, nay nhờ có bức tranh mới nhớ lại. Điều này chứng tỏ tranh nguyên gốc. Ai mà biết được địa chỉ xưa như vậy? Địa chỉ Cảnh An sau 1963 đã có số khác và tên đường đổi lại là đường Nguyễn Tường Tam, sau 1975 lại đổi thành Ngô Chí Quốc. Vật liệu làm tranh là ván ép nên tranh không còn nguyên vẹn. Kỹ thuật năm 1954 vẫn còn có khuyết điểm. Hàng chữ viết tặng: “Kính tặng quan Bác sỉ, một kỷ niệm muôn đời, Ngày 8 Janvier, Năm 1954”, có chữ sĩ sai chánh tả, nét chữ hơi thô, không giả mạo. Theo anh Nguyễn An Hà là chủ sở hữu, tranh này là do ba tôi đã tặng cho bác sĩ Lê Văn Thiệt, người đã chữa trị cho ba tôi trong thời gian ông nằm bệnh viện Sài Gòn do bị tai nạn xe cộ. Anh còn gởi kèm một bức ảnh chụp hình bức tranh được treo trang trọng ở bịnh viện (hay nhà riêng của bác sĩ Lê Văn Thiệt). Tôi chỉ có thể nhận định 95% là tranh thiệt. 5% còn lại vì lý do: Thời điểm làm bức tranh là năm 1954. Tôi chưa ra đời. Do đó chưa bao giờ thấy tranh này nên không dám nói 100%. Bức tranh quá đẹp. Khi tôi lớn lên, có dịp làm quen với sản phẩm sơn mài của ba tôi thì chưa từng thấy những bức tranh đẹp và nhiều chi tiết như vậy”.
Theo nhà sưu tập tranh Phạm Hoàng Việt có chơi tranh Cảnh An, giai đoạn đầu, sơn mài Cảnh An chỉ ký tên hãng bằng chữ Hán - Nôm: Thủ Dầu Một 守油沒/ Cảnh An tạo 景安造/ và một ký hiệu khác hiện chưa giải thích được. Đó có thể là chữ ký nghệ nhân hay dấu hiệu riêng của Cảnh An. Giai đoạn sau, hiệu trên tranh được ký bằng chữ Quốc ngữ: Cảnh An và Vietnam hay Thủ Dầu Một. Anh cho biết hiện nay tranh sơn mài Cảnh An trở nên hiếm và quý, thậm chí có người đã làm giả.
Phạm Công Luận
Bình luận