“Cúng thổ” là một tập tục thuộc về văn hóa nhân sinh, vào mùng 10 tháng Giêng âm lịch. Ðây không phải cúng “Thần Ðất”, cũng không phải cúng “Ông Ðịa”...
Trong lối nói thông thường, “Thổ” là đất, mà “Địa” cũng là đất, nên dễ hiểu lẫn lộn.
“Địa” (地) đối ứng với “Thiên” (天), chẳng hạn tế đàn Nam Giao là tế “Trời Đất”, tế “Thiên Địa” (天地) (ta nói “thiên - địa”, không nói “thiên - thổ”).
Còn “THỔ” (土) ? Chẳng hạn, “hữu nhân thử hữu thổ” (有人此有土), “có người thì có đất”, rồi “cố thổ” (故土) nghĩa là “quê cũ” (không nói “cố địa”), “thổ” ở đây mang nghĩa quê hương, làng xóm. Ngoài ra cũng hay thấy từ “thổ ngữ” (土語) là tiếng nói đặc trưng ở một vùng nào đó (gọi “thổ ngữ”, không gọi “địa ngữ”); “thổ sản” (土產) là sản vật riêng có, hoặc nổi bật, thuộc vùng đất nào đó (không gọi “địa sản”). Nôm na, “thổ” để chỉ vùng đất, quê hương - xin chú ý: có yếu tố con người tác động, liên quan/ thuộc về con người. Như “thổ ngữ” là tiếng nói của con người, “thổ sản” là sản vật - được tạo tác bởi con người ở vùng đất nào đó....
Tập tục cúng đất đai theo cổ lệ của phương Nam là tập tục thờ cúng của cả cộng đồng khai khẩn. Việc cúng đất mùng 10 Tết hàng năm là phong tục tốt đẹp của đạo nghĩa uống nước nhớ nguồn, lối sống hài hòa, thân thiện với thiên nhiên.
Cúng chủ thổ là cúng người có công khai khẩn cho cả một vùng rộng lớn, chẳng hạn Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc hầu) với kinh đào Vĩnh Tế; Nguyễn Hữu Cảnh với công trạng lớn lao ở miền Nam, biểu trưng như hoạt động tri ân. Có người được tôn phong thành “Thần” (神), như Nguyễn Hữu Cảnh là “Thượng đẳng thần” (上等 神). “Thần” ở đây không phải là “thần linh siêu nhiên”, mà thuộc về “nhân thần” (人神) - có nguồn gốc là con người, do hành trạng đặc biệt nên được tôn vinh thành “Thần”, hiểu là vị đáng kính, có công trạng với một cộng đồng nhất định. Thường gặp hơn cả là chủ thổ, tức những ông/bà có công khai làng, dựng chợ, đắp đường cho dân ở, làm ăn tại từng vùng cụ thể. Vào mùng 10 tháng Giêng, người dân trong mỗi vùng cúng để tạ ơn chủ thổ. Vậy nên, chủ thổ không phải là “Thần Đất” có quyền phép siêu nhiên, mà cũng là “người trần mắt thịt”, được tưởng nhớ.
Trong tiến trình khai khẩn định cõi phương Nam, người Việt - Khmer - Hoa cùng sống chung. Trong tập tục mùng 10 tháng Giêng, chủ thổ đóng vai trò trọng yếu, bên cạnh đó còn có việc cắm nhang cho Ông Địa, thần Tài...
Vì có mặt “thần Tài” trong mùng 10 tháng Giêng, theo cổ lệ phương Nam, nên có người vội vàng cho rằng mùng 10 cũng có “vía thần Tài”. Thật ra, “vía thần Tài” theo tín ngưỡng người Minh Hương là mùng 5 Tết. Còn trong mùng 10, sở dĩ có việc thắp một nén nhang cho “cái shén” (thần tài) - là cách thể hiện sự bao dung tín ngưỡng nơi phương Nam, hoàn toàn không phải là “ngày vía”.
Tóm lại, với văn hóa miền Nam, mùng 10 tháng Giêng là cúng thổ, không phải cúng “Thần Đất” (như đã phân tích ở trên). Điều quan trọng nhứt trong cúng thổ (mùng 10) là TẠ ƠN “tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai cơ”. Việc cúng kiếng đất đai chủ thổ, so với việc cúng “vía Thần Tài” rất khác nhau về bản chất: một đàng để NHỚ ƠN, còn một đàng để CẦU LỢI. Nói cách khác, cúng thổ mùng 10 trong đời sống dân chúng Nam bộ không phải xuất phát từ tục cúng “thần Tài” như một số người đã hiểu sai, giải thích sai. Ở đây, chẳng qua là sự dung hợp tâm linh cộng đồng (như diễn giải trong bài), trong đó không chỉ có tín ngưỡng của người Minh Hương (Trung Quốc) mà còn có cả tín ngưỡng của người Khmer.
Ngoài ra, trong văn hóa Việt còn có ngày vía Thần Đất (Thổ thần, ông Địa), tùy vùng, nhưng không phải là cúng thổ (mùng 10 tháng Giêng) trong cổ lệ phương Nam, đây hoàn toàn thuộc về tập tục văn hóa nhân sinh, “uống nước nhớ nguồn”, “ăn trái nhớ người trồng cây”.

Đôi điều nói thêm:
Người Công giáo chúng ta không thực hành các nghi lễ cúng này, nhưng luôn tôn trọng các truyền thống văn hóa của dân tộc, cũng như vẫn xem lòng biết ơn tiền nhân, ông bà, cha mẹ là một trong những yếu tố sống đạo trọn vẹn, nằm trong những đòi buộc của giáo lý Hội Thánh.
NGUYỄN CHƯƠNG
Bình luận